Nguyễn Xuân Đài
Con chim Lạc thường thấy trong hoa văn trống đồng, thạp đồng... từ đó người ta quan niệm nó là con chim “vật Tổ” trong Tô Tem của người Việt cổ. Tuy nhiên, trong các kiến trúc đình, chùa, miếu người ta thường chỉ khắc, đắp, vẽ hình Long, Ly, Quy, Phượng. Vậy con nào là con vật Tổ?
Bài viết dưới đây của nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Xuân Đài là một ý kiến riêng mong bạn đọc tham khảo.
Trên đất Tổ con người cư trú từ thời Đá cũ ở xã Sơn Vi huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ người ta đã tìm thấy những di chỉ mảnh tước và hòn cuội tự nhiên được chế tác gò đẽo trực tiếp trên một mặt để chế tạo ra các hình công cụ rìa lưỡi dọc, rìa lưỡi ngang... cách ngày nay hàng vạn năm. Chúng ta cũng đã biết nền văn hóa liền mạch Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun đến văn hóa Đông Sơn rực rỡ và Nhà nước Văn Lang ra đời ở chính đất Tổ cách đây khoảng thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên (TCN).
Ngay chân núi Hùng, nơi thờ các Vua Hùng đã tìm thấy một chiếc trống đồng lớn nhất có đường kính 0.93m, cao 0.7m. Trống đồng loại cổ vật cổ điển hình văn hóa Đông Sơn, là vật tiêu biểu thời dựng nước. Trên trống đồng có hình con chim mỏ dài, cổ dài, chân dài, cánh ngắn gọi là chim Lạc
Theo giáo sư Lê Văn Lan “Trong Hán ngữ quả có từ “Lạc điểu” (chim Lạc), nhưng tra từ điển “Từ Hải” và “Từ Nguyễn” thì ở đó thích nghĩa (nguyên văn) là “Lạc Điểu thị Dục Kỳ Dã” (Chim Lạc là chim Dục Kỳ vậy), lại tra tiếp chữ “Dục Kỳ” thì thấy cả hình lẫn chữ đều là chim cú!
Về lịch sử - văn hóa nguyên thủy cho biết tôn giáo sớm nhất là thời vật tổ (Tô Tem). Chủ nghĩa Tô Tem tin rằng “Tất cả các thành viên của một nhóm Thị tộc đều sinh ra từ một số động vật, thực vật, hoặc vật thể hay hiện tượng tự nhiên khác. Người trong Thị tộc đều có quan hệ họ hàng với “Tô Tem”, người đẻ ra do Tô Tem nhập vào khi chết lại trở về với Tô Tem của mình. Đối với họ Tô Tem là vật tổ vị thần bảo vệ đặc biệt nên họ tín ngưỡng tôn thờ.
Vào những năm 1968 - 1971 liên tục có 4 cuộc hội thảo quốc gia về thời kỳ Hùng Vương dựng nước. Về văn hóa tinh thần đã có tín ngưỡng Tô Tem khởi thủy từ hậu kỳ Đá cũ gắn liền với Thị tộc - nhưng tập trung chủ yếu vào Tổ tiên Chim và Rồng.
Ở Tây Bắc đặc biệt tư liệu về dân tộc học những tộc người quen gọi là Xá là những tộc người bản địa cổ nhất cho đến nay được biết ở địa phương. Trong các nhóm Xá người Khmu (Xá Cẩu) có tới 20 họ mang tên chim nhưng chim Phượng Hoàng đất là quan trọng nhất. Tộc người Xinh Mul tức Xá Puộc có nhiều họ chim, nhưng cả tộc thờ chim Đe Đe. Người Mạng có 3 trong 5 họ mang tên chim, 1 họ mang tên Hổ, 1 họ mang tên Rắn Đất.
Dân tộc Thái họ gốc là họ Lò mang tên chim Phượng Hoàng đất: Cũng theo tài liệu dân tộc học Tây Bắc cho thấy một khía cạnh khác với Tô Tem tín ngưỡng Rồng ở các tộc Xá và Thái có liên quan đến vấn đề nước, và gắn chặt với sản xuất làm ruộng và đi sông. Tô Tem Rồng như là một thần quản mưa nắng như một thứ ma nước.
Xem đó ta không thấy Tô Tem các dân tộc Tây Bắc có tên con chim Lạc. Lại theo thư tịch người Mường “Sử thi đẻ đất đẻ nước” trong đó chỉ thấy nói chim trống Tùng và chim mái Tót đẻ ra trứng, trứng ấp nở ra “Nghe thấy tiếng người Lào, Kinh, Mường, Mán, Mèo” vậy là các dân tộc Việt Nam trong quá khứ xa xăm cùng nguồn gốc cùng cộng cư để bảo vệ và phát triển. Ta cũng không thấy nói đến chim Lạc.
Tín ngưỡng đặc trưng của dân tộc Việt Nam là Rồng và chim Phượng có rễ sâu mạch dài theo dòng lịch sử văn hóa từ thời Thị tộc cho đến ngày nay. Trên các đình, đền, miếu, phủ còn thấy biểu tượng “Lưỡng long triều nguyệt”, trục biểu có 4 con chim Phượng tọa 4 góc Bắc, Nam, Đông, Tây bảo vệ nơi thờ cúng. Trong tổ chức lễ hôn nhân thường treo tranh “Rồng và Phượng” (Phượng Hoàng) và chữ Hỉ, Rồng Phượng như là một vị thần bảo vệ hạnh phúc lứa đôi.
Trong các đồ án mỹ thuật nơi thờ tự cũng như đồ gia dụng (bàn ghế, giường, tủ) cũng không tìm thấy hình tượng con chim Lạc mà chỉ thấy hình bóng con Rồng cách điệu và con chim khác.
Vậy con chim Lạc hư thực ra sao? Theo giáo sư Lê Văn Lan “Chim Lạc nằm trong hệ thống kết quả nghiên cứu giáo sư Đào Duy Anh về nguồn gốc dân tộc, “Chim Lạc sở dĩ gọi thế là vì liên quan đến “Tô Tem” của người Lạc Việt (trong khi di cư, thấy loài “Hậu Điểu” này gắn bó nên thờ làm vị Tổ luôn). Vào thế kỷ thứ 4-3 TCN do sức ép của Hán tộc đã có một cuộc di dân lớn từ Phúc Kiến xuống Phương Nam bằng đường biển bay theo thuyền đó là “Hậu Điểu” này “Chim Lạc”. “Chim Lạc” và cuộc di cư này khắc trên trống đồng Đông Sơn. Nhưng niên đại trống đồng này được xác định từ thế kỷ 7 TCN, trước cuộc di cư tới 2 - 3 thế kỷ - tức là nó không phải con chim bay theo thuyền di cư thế kỷ 4 - 3 TCN.
Chim Lạc là âm Hán - Việt gốc từ Trung Hoa đọc là “Lúc” trong tiếng Việt không thứ chim nào gọi là “Lúc” mà chỉ có na ná với âm “Lúa”. Hội thảo quốc gia 1968 - 1971 về thời đại Hùng Vương đã có hội thảo chuyên đề về những hình chim trên trống Đông Sơn, chuyên gia đồ họa đầu ngành họa sỹ Phan Kế An và chuyên gia đầu ngành về ngôn ngữ học lúc bấy giờ cùng chúng tôi đã nhất trí: Con chim mỏ dài, cổ dài, chân dài, cánh ngắn trên trống đồng chính là chim “Con cò” giữa con Sếu, Vạc, Bồ Nông quen thuộc gắn bó với người trồng lúa nước xưa cũng như nay.
Theo dòng lịch sử từ Đinh, Lê, Lý, Trần... Nguyễn không tìm thấy hình tượng chim Lạc trong các đồ án thế mà thời nay nó xuất hiện nhan nhản trên nóc đền, trên trụ biểu, cổng... thấy cả trong dịp thi tháp Hùng Vương có tác giả thể hiện 18 chim Lạc ôm lấy bọc trăm trứng thì sai về văn hóa Việt Nam biết chừng nào.
“Chim Lạc” không thể thay thế chim Phượng trong đồ án kiến trúc nghệ thuật thờ cúng Việt Nam.
N.X.Đ