Là người viết sau, tôi chỉ muốn tìm hiểu thêm nguyên nhân nào đã dẫn đến thành công của đồng chí Trần Ngọc Quế với Công ty giấy Bãi Bằng ngoài những phẩm chất lao động sáng tạo, tài quản lý, có nhãn quan văn hóa, có tâm đức trong công việc và ứng xử? Phẩm chất của người anh hùng không chỉ là cái có sẵn, mà nó còn được tích lũy, kế thừa từ trước đó và được tôi luyện trong suốt cả quá trình? Với những ý nghĩ trên, thôi thúc tôi hăm hở đến Bãi Bằng và tìm gặp bằng được người anh hùng mà báo giới đã hết lời ca ngợi.
Tôi đến thăm ông vào một buổi sáng chủ nhật. Rất may là ông có nhà. Hình như ông cũng đang bận bịu cùng tốp thợ sửa đường ống nước. Ông vui vẻ pha trà mời tôi và trách khéo “Chú cứ đi giày vào kẻo lạnh” (lúc bước vào nhà tôi tháo giày để ngoài cửa) - nói rồi tự tay ông nhấc đôi dép cho tôi đi tạm.
Tôi đặt vấn đề: Nhân kỷ niệm ngày thành lập thành phố Việt Trì, Hội văn nghệ thành phố muốn giới thiệu hình ảnh của ông khi còn là một kỹ sư điện, công tác tại Nhà máy giấy Việt Trì, trải qua những năm tháng chiến tranh ác liệt “bám máy, bám lò” ông đã cùng với những cán bộ, công nhân Nhà máy giấy Việt Trì góp phần vào thành tích chung của nhân dân thành phố trong những năm chống Mỹ cứu nước. Tôi nói vui “Có lẽ bác đã trở thành anh hùng từ khi ở Việt Trì, công ty phải chia vui với thành phố. Hôm nay em muốn bác cung cấp cho một ít tư liệu để viết bài cho Hội”. Ông cười xòa “Công việc của tớ có gì đâu, thành tích là của tập thể, tất cả đều do anh em xây dựng nên”.
Tôi chợt hiểu: Ông đã chối khéo vì không muốn nói về mình. Vừa lúc tốp thợ lại ùa vào nhà, ông ân cần mời nước từng người. Tôi xin phép ra về và tự nhủ: việc của Hội giao cho không thể bỏ dở, phải tìm những người cộng sự trước đây của ông ở Việt Trì may ra mới có thể hoàn thành bài viết. Từ ý nghĩ đó tôi đã tìm gặp lại bác Cương nguyên Bí thư Đảng ủy, chú Trọng nguyên là cán bộ phòng kỹ thuật nhà máy giấy... đã nghỉ hưu tại Việt Trì. Nghe các bác, các chú kể lại về ông với những năm tháng chống Mỹ ở Việt Trì, bỗng hiện về trong tôi cả một thời kỳ gian khổ oanh liệt của thành phố quê hương...
Khu công nghiệp Việt Trì vào năm 1965, năm cuối của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, đang khởi sắc - Khi anh kỹ sư điện Trần Ngọc Quế về công tác tại phòng kỹ thuật nhà máy Giấy Việt Trì mới được hơn một năm thì Mỹ leo thang đánh phá bằng không quân ra miền Bắc. Chúng tung ra những máy bay chủ lực “thần sấm” (F105) “con ma” (F4H)... ngày đêm gầm rú và quần đảo trên bầu trời thành phố. Tội ác của chúng đã bị trừng phạt đích đáng bởi những đòn đánh phủ đầu của lực lượng phòng không Đoàn Tam Giang (E270).
Thực hiện chủ trương của Thành ủy, Đảng ủy và Ban Giám đốc Nhà máy Giấy đã chuyển hướng chỉ đạo từ sản xuất thời bình sang sản xuất thời chiến; tổ chức cho cán bộ, công nhân triệt để sơ tán một phần lực lượng, số còn lại vẫn phải bố trí “vừa sản xuất, vừa chiến đấu”. Phát động phong trào thi đua “4 giỏi”: Sản xuất giỏi, chiến đấu và phục vụ chiến đấu giỏi, tổ chức đời sống giỏi”.
Lúc bấy giờ phòng kỹ thuật nhà máy gồm 2 bộ phận: Kỹ thuật điện và kỹ thuật công nghệ. Bộ phận kỹ thuật điện - đây là khâu trọng yếu của nhà máy, quản lý toàn bộ hệ thống điện: điện truyền dẫn, điện điều khiển. Riêng hệ thống điện truyền dẫn bố trí theo mạng cả ở trên cao, cả ở ngầm dưới đất, liên quan đến nhà máy khác trong khu vực, được đặt vào các hạng mục “tối mật” trong công tác bảo vệ. Tuy là kỹ sư trẻ nhưng đồng chí Quế được Ban Giám đốc giao trách nhiệm phụ trách quản lý công việc này. Anh đã ngày đêm miệt mài học hỏi kinh nghiệm của các đồng sự, nhanh chóng làm chủ được toàn bộ thiết bị điện của Nhà máy, lập hồ sơ kỹ thuật thiết bị, máy móc để có thể sửa chữa, phục hồi, chế tạo bổ sung thay thế khi cần thiết.
Ông Trọng (nguyên cán bộ Phòng kỹ thuật Nhà máy Giấy) kể: Trong thời gian được cùng làm việc với đồng chí Quế, những kỷ niệm khó quên của tôi là những trận dội bom Mỹ, bắn máy bay Mỹ và khắc phục những hậu quả do bom Mỹ gây ra đối với Nhà máy. Qua mỗi lần khó khăn thử thách thì đức tính gan dạ, tháo vát, thông minh, sáng tạo ở đồng chí Quế lại được thể hiện rõ nét hơn. Ở vị trí nào đồng chí Quế cũng khẳng định được mình. Trận máy bay Mỹ đánh vào nhà máy Giấy Việt Trì ngày 19/7/1966. Phân xưởng xeo bị phá hỏng 1/3, hy sinh một công nhân đóng van an toàn. Khi máy bay địch vừa đi khuất, chưa có lệnh báo yên, đồng chí Quế đã xuống các phân xưởng để kiểm tra, xác định lại hiện trường tình trạng máy móc thiết bị, lên phương án phục hồi sản xuất. Dưới sự điều hành của Giám đốc Phạm Văn Trị, chỉ trong một thời gian ngắn 2 tổ máy xeo đã được khôi phục, tuy công suất máy và khối lượng sản phẩm có giảm đi. Với thành tích vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu, nhà máy đã nhận được sự khen ngợi của đồng chí Bí thư Thành ủy Trần Lưu Vỵ.
Trận máy bay Mỹ bém bom vào Nhà máy Giấy ngày 1/3/1968, phân xưởng nấu bột, thu hồi kiềm, tẩy rửa bột bị hỏng nặng, trong đó có cả hệ thống cáp ngầm cao thế. Lúc này, các chuyên gia Trung Quốc đã rút, trách nhiệm kỹ thuật càng đè nặng lên vai cán bộ của phòng. Là một kỹ sư trẻ nhưng đồng chí Quế là người có đầu óc sáng tạo, đề xuất được nhiều sáng kiến trong sản xuất và cải tiến kỹ thuật có giá trị. Chủ trương “Tự chế tạo máy xeo nhỏ” của phòng kỹ thuật đề xuất đã được lãnh đạo nhà máy chấp nhận. Bộ Công nghiệp nhẹ đánh giá cao phương án này.
Tập trung trí tuệ và sức lực, cán bộ công nhân nhà máy đã khẩn trương khôi phục máy móc bị phá hỏng, chế tạo các máy xeo “vệ tinh” phục vụ sản xuất ở 2 điểm sơ tán của nhà máy ở Tây Cốc - Đoan Hùng và Nghĩa Lộ (F1 và F2). Giúp đỡ một số đơn vị sản xuất giấy của các tỉnh bạn. Phần lớn các thiết bị quan trọng đã được đưa về nơi sơ tán, tiến hành tổ chức thành các phân xưởng nhỏ.
Trong đội “cảm tử” của nhà máy được thành lập, đồng chí Quế cùng một số anh em khác tình nguyện vào đội xung kích ở lại bám nhà máy, thực hiện khẩu hiệu “Địch đến ta đánh, địch đi ta lại làm”. Có hôm ngày báo động mấy lần, anh em trực chiến chỉ được ăn “bánh mì luộc”, nhưng trên gương mặt rắn rỏi và sạm nắng gió của đồng chí Quế, vẫn ánh lên niềm tin truyền sang cho mọi người. Ngoài việc trực chiến, phục vụ sản xuất, anh em trong đội còn tham gia phá bom từ trường ở cầu Việt Trì và kho dầu Bến Gót. Để hoàn thành nhiệm vụ của người cán bộ kỹ thuật, ngoài thời gian làm việc và sẵn sàng chiến đấu, đồng chí Quế còn tranh thủ tự học thêm những kiến thức về công nghệ giấy qua “người thầy” - Nguyễn Đăng Ngay - Phó Giám đốc kỹ thuật Nhà máy đã được đào tạo ở Pháp và Trung Quốc.
Trận máy bay Mỹ ném bom vào Nhà máy giấy Việt Trì đúng vào ngày Quốc tế thiếu nhi 1/6/1972.
Hôm ấy, tiểu đội trực chiến của A trưởng Bùi Đăng Lữ từ sáng sớm đã có mặt tại khu vực cổng nhà máy. Vào lúc 9 giờ sáng, khi tiếng còi báo động của thành phố vừa cất lên, thì 4 tốp máy bay địch đã lao vào thành phố thi nhau cắt bom vào khu vực nhà máy Điện, nhà máy Giấy. (Phân xưởng bột nhà máy Giấy đã bị phá hủy nặng nề). Khi vừa ngớt tiếng bom, điện thoại không liên lạc được, đồng chí Quế đã cùng một số đội viên hướng về hầm chỉ huy tại khu vực cổng nhà máy. Hầm chỉ huy đã bị bom Mỹ phá sập, gạch, bê tông ngổn ngang. Biết trong đó có các đồng chí mình, đồng chí Quế cùng các đội viên cảm tử, cứu thương nhanh chóng đào bới để cứu đồng đội. Mặc dù bàn tay bị mảnh nhọn của sắt và gạch làm rách, rớm máu, mọi người ra sức lật từng tấm bê tông và đất đá đang vùi lấp cửa hầm.
Máy bay địch vòng lại, một số đội viên định tản ra. Tiểu đoàn trưởng tự vệ nhà máy - Giám đốc Phạm Văn Trị đội mũ sắt, mặt mũi lấm lem bụi đất vẫn đứng nguyên vị trí hô to: “Không chạy!”. Lúc đó Trần Ngọc Quế từ trong hầm bước ra, hai tay run run đỡ người A trưởng Bùi Đăng Lữ của mình đã hy sinh. Các đội viên xúm lại, 6 chiến sĩ tự vệ khác nữa anh dũng hy sinh trong căn hầm này, trong đó có đồng chí trung đội trưởng trung đội trực chiến bắn máy bay - Huỳnh Thơm, mắt anh đã nhắm nghiền mà 2 tay vẫn cầm chắc khẩu súng K44 đạn đã lên nòng. Đồng chí Trần Đức Quả bị thương nặng đã được đưa đi cấp cứu kịp thời.
Đảng ủy và Ban giám đốc nhà máy đã phát động đợt thi đua với tinh thần biến căm thù thành sức mạnh, biến đau thương thành hành động, tổ chức lại đội xung kích cảm tử; xây dựng lại phương án bảo vệ, khôi phục lại nhà máy và tổ chức sản xuất ở nơi sơ tán. Sau sự kiện này, theo lời ông Trọng kể: anh Quế lầm lì, ít nói hơn mọi ngày, anh lao vào công việc không kể ngày đêm, hình như anh muốn làm thay công việc của những người đồng đội vừa mới khuất.
Cả 2 thời kỳ chiến tranh phá hoại, máy bay Mỹ đã 18 lần ném bom và bắn rốc-két vào nhà máy, trong đó có 3 trận làm thiệt hại lớn, gây ra những khó khăn và hậu quả chồng chất tưởng chừng như khó vượt qua nổi. Song với sự nỗ lực của cán bộ phòng kỹ thuật và tập thể công nhân nhà máy, 557 sáng kiến và cải tiến kỹ thuật được áp dụng, sản xuất đã được phục hồi. Đồng chí Quế người cán bộ kỹ thuật trẻ - người Phó Bí thư Đoàn thanh niên nhà máy - tổ trưởng tổ Đảng chi bộ phòng kỹ thuật đã góp phần tích cực vào thành tích chung của nhà máy, xứng đáng với lòng tin cậy của mọi người.
Tôi đã trở lại thăm ông. Tôi không đả động gì việc viết bài về ông. Biết ông yêu thơ, tôi hỏi một câu thật ngố “Bác làm công tác quản lý doanh nghiệp bận bịu thế mà vẫn có thời gian làm thơ? Em biết có một triết gia quan niệm rằng: Thà làm anh hùng để nhà thơ ca ngợi, còn hơn làm nhà thơ đi ca ngợi người anh hùng?” Ông cười nhẹ “Ồ, quan niệm như vậy là chưa đúng. Ngoài công việc ra mình ghi lại những kỷ niệm bằng thơ. Lúc vui đọc cho bạn bè cùng nghe”. Đúng vậy, ở Trần Ngọc Quế cả hai phẩm chất của người anh hùng và người nghệ sỹ không hề có mâu thuẫn. Ông đâu chỉ có công việc, những kỷ niệm đẹp của ông về quê hương về người thân, về Công ty Giấy Bãi Bằng, về nhà máy Giấy Việt Trì của một thời chiến tranh làm sao mà quên được? Ra về, bên tai tôi như còn vọng lại tiếng máy bay Mỹ gầm rú, tiếng bom Mỹ, đạn Mỹ xả xuống rừng dừa xanh Bình Định, Nhà máy Giấy Việt Trì, tiếng thét căm hờn của các đội viên tự vệ và hình ảnh của kỹ sư Trần Ngọc Quế nhanh nhẹn, xông xáo dưới khói bom đạn Mỹ cùng đồng đội bám đất, bám máy cho những dòng giấy trắng không ngừng tuôn chảy gửi tới chiến trường, góp nên chiến công chung của thành phố anh hùng và để có ngày hôm nay một Trần Ngọc Quế - người anh hùng lao động của quê hương Nguyễn Huệ trên đất Tổ Vua Hùng.
N.M