Chiến tranh đã lùi xa gần nửa thế kỷ. Thời gian đã cách xa 46 năm, chứng tích chiến tranh tưởng như đã bị thời gian xóa nhòa, song di chứng của sự tàn khốc, hủy diệt vẫn để lại trên thân thể cũng như trong ký ức hàng triệu người Việt, hiện diện tại hàng nghìn nghĩa trang liệt sĩ, đài tưởng niệm khắp dọc dài đất nước. Có thể thấy, để có được ngày vui đại thắng, dân tộc ta đã phải trường kỳ gian khổ, gánh chịu bao đau thương, mất mát. Hàng triệu đồng bào, chiến sĩ ngã xuống trong hai cuộc kháng chiến, hàng triệu người để lại xương máu nơi chiến trường. Bao máu đào đã đổ xuống để Tổ quốc được như ngày hôm nay.
Trong những ngày tháng 4 lịch sử này, chúng tôi có dịp trò chuyện với một số chiến sỹ, bộ đội Trường Sơn đã từng có nhiều đóng góp máu xương và có những giây phút được chứng kiến khoảnh khắc thiêng liêng mừng ngày chiến thắng giải phóng miền Nam 50 năm ngày 30/4 lịch sử năm ấy.
Chúng tôi đến phường Cao Bang, xã Thanh Minh, thị xã Phú Thọ được cô Mai Thị Thọ, Phó Chủ tịch Hội Truyền thống Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh, Trưởng ban Liên lạc nữ chiến sỹ Trường Sơn tỉnh Phú Thọ, xúc động kể lại những kỷ niệm Trường Sơn năm xưa: Nhớ lại ngày ấy, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước càng gần đến ngày thắng lợi, càng nhiều gay go ác liệt. Chiến trường miền Nam lúc đó cần sự chi viện sức người sức của hơn lúc nào hết. Nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, ngày 24/8/1973 tôi trong số 500 cô gái tuổi còn rất trẻ mười tám đôi mươi viết đơn tình nguyện xung phong lên đường nhập ngũ. Sau đó 2 ngày hành quân bộ ra ga Tiên Kiên, lên tàu về đơn vị huấn luyện - Sư đoàn 304B tại Bắc Thái (nay là tỉnh Thái Nguyên) được hơn 1 tháng thì chúng tôi nhận lệnh hành quân vào khu vực gần bến phà Long Đại, tỉnh Quảng Bình, đóng quân ở đó để huấn luyện tiếp, chờ lệnh cấp trên. Trưa ngày 30/12/1973 nghe tiếng kẻng tập trung, chúng tôi nhận được lệnh: “Tiếp tục hành quân vào phía Nam của Tổ quốc”. Chúng tôi thu xếp quân tư trang cá nhân - quần áo khô, ướt vào ba lô và trèo lên xe tải bịt bạt kín hai bên. Tiễn chân chúng tôi là các bọ, các mạ, các chị và cả các em nhỏ. Người thì tấm mía, người thì vài nải chuối, người thì túi khoai lang, chạy theo nhét vào tay chúng tôi và nói: “Các con cầm lấy đi đường ăn cho mát rọt. Mạ thương các con lắm, mảnh đất này đã nhiều lần đón đưa những đoàn quân nghỉ ở đây rồi ra mặt trận. Nhưng lần này mạ thấy xúc động nhất và thương các con lắm vì thấy các con là phụ nữ, lại còn trẻ quá”. Các mạ nói nghẹn ngào trong nước mắt: “Mạ nhìn các con ngồi trên xe, mạ cảm giác như đang phải xa những đứa con ruột của mạ”. Xe bắt đầu chuyển bánh, hình ảnh các mạ, các chị khuất dần sau lũy tre làng. Những hình ảnh đó còn đọng lại và đã nâng bước chúng tôi trên đường hành quân ra trận cho mãi đến hôm nay.
Rồi chúng tôi hành quân, dừng lại ở bờ Bắc sông Bến Hải, cắt lá cỏ tranh, chặt cây dựng lán dã chiến. Đơn vị nữ chúng tôi được bổ sung vào Đoàn 559 - Binh đoàn Trường Sơn bây giờ. Một thời gian sau, đơn vị chúng tôi lại chuyển đến gần ngầm Ly Tôn. Thời gian đó chúng tôi cùng nhau dồn hết sức lực cho con đường 14B, ngày đêm mở đường bất chấp mọi hiểm nguy để giữ “lưu thông mạch máu” cho tuyến đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh huyền thoại. Khẩu hiệu lúc đó: “Tim còn đập, đường phải thông” hoặc “Sống bám cầu bám đường, chết kiên cường dũng cảm”. Trên cung đường này, chúng tôi có nhiều kỷ niệm đọng lại đến tận bây giờ. Hàng ngày chứng kiến, gặp gỡ những ánh mắt, nụ cười của những người lính trẻ hối hả trong đoàn quân ra trận. Những cái bắt tay không muốn dời, những câu đùa vui, những dòng địa chỉ ghi vội vã trao cho nhau. Những anh giải phóng quân của Quân đoàn II đang hành quân chi viện cho chiến dịch Hồ Chí Minh trong đoàn quân ra trận ngày đó, nơi đây tôi và đồng đội đã gặp các anh giải phóng quân là đồng hương quê Phú Thọ, những cái bắt tay, lời chúc mừng, cùng nhau hẹn ngày chiến thắng trở về theo suốt những chặng đường hành quân...
Thời gian đó, nhiệm vụ mở đường cấp bách hơn lúc nào hết. Khí hậu khắc nghiệt của núi rừng Trường Sơn, mọi sinh hoạt thiếu thốn đủ bề, ăn uống kham khổ. Dưới lòng suối, lá cây rừng mục nát, chất độc hóa học dioxin của đế quốc Mỹ rải xuống khắp dãy núi Trường Sơn. Mỗi lần gội đầu, tóc rụng chảy theo dòng nước. Chúng tôi chỉ biết nhìn theo và tiếc nuối. Nước suối ô nhiễm đã gây ra những bệnh ngoài da, bệnh viêm nhiễm phụ khoa... Tôi còn nhớ được những câu thơ xúc động của một nhà thơ nào đó viết về tháng năm đầy ắp kỷ niệm: Vào bộ đội năm em tròn mười tám/Ở Trường Sơn ngày ấy tuổi trăng tròn/ Em đâu được làm duyên con gái/ Mái tóc dài gửi lại Trường Sơn... Chị Nghiêm Thị Hằng, một người đồng đội cũng có những vần thơ: Tuổi hai mươi chúng tôi ở Trường Sơn/Thiếu gạo, thiếu rau, cơn sốt rừng cả tháng/Chia nhau từng ngọn măng rừng, từng viên thuốc đắng/ Vẫn mở đường ngang dọc dãy Trường Sơn... Biết bao kỷ niệm ở chiến trường, tình cảm trân quý của những người lính: những lời chào, cái bắt tay, cả những những vần thơ trong sáng xao xuyến là động lực để tôi vượt qua gian khó, hoàn thành tốt nhiệm vụ: Em đẹp lắm Thọ ơi, em đẹp lắm/ Như bông hoa nở thắm giữa Trường Sơn/Với tuổi em mười tám trắng ngần/Đã để trong lòng anh nhiều mơ ước...
Trong những ngày ở Trường Sơn đầy máu lửa, đơn vị tôi hy sinh mất khá nhiều đồng đội. Người thì bị chết vì bệnh tật, sốt rét. Người thì bị tai nạn vì bỏng xăng. Người thì hy sinh vì bom nổ chậm, bom bi... Tận mắt chứng kiến những giây phút ra đi của đồng đội ở cái tuổi đẹp nhất của đời con gái, tuổi trăng tròn giữa đại ngàn Trường Sơn tôi không thể cầm được nước mắt. Sự hy sinh của các chị, các anh đã làm nên chiến thắng lịch sử vẻ vang: Tôi còn nhớ như in, đúng 11h30’ ngày 30/4/1975 tiếng đài của Chính trị viên thông báo: “Miền Nam đã hoàn toàn giải phóng - cờ giải phóng đã được tung bay trên nóc Dinh độc lập”. Niềm vui đến bất ngờ, chúng tôi như trong mơ, xúm vào lắng nghe như nuốt lấy từng lời phát ra từ chiếc đài nhỏ đeo bên hông hàng ngày của Chính trị viên. Chị em chúng tôi ôm nhau, người khóc, người cười, có những bạn quá phấn khích reo ầm lên: “Sống rồi đồng đội ơi! Sắp được về với mẹ rồi”... Đất nước giải phóng, chiến tranh kết thúc, tôi trở về nhà tôi nợ người cha thân yêu chữ hiếu không tròn vì khi đó tôi còn ngoài mặt trận mà không thể về chịu tang được; giây phút đầu tiên khi bước chân vào nhà gặp mẹ sau bao năm xa cách mòn mỏi đợi chờ, mẹ tôi bàng hoàng không tin vào mắt mình. Tôi thấy thương mẹ quá, ôm mẹ khóc nức nở. Mẹ tôi nói nghẹn ngào trong nước mắt: Chiều nào mẹ cũng ra cổng hoặc ngồi ở bậu cửa trước nhà để ngóng con về. Con còn sống được về là tốt rồi”. Đêm hôm đó, sau nhiều tháng năm xa cách chờ mong, tôi được mẹ ôm chặt vào lòng, ngủ một giấc dài như được trở về tuổi thơ ngây ngày bé. Ngừng một lúc, đồng chí Thọ chỉ vào đôi dép nhựa cũ để trong góc tủ, đây là kỷ vật thiêng liêng, đôi dép nhựa này gót đã mòn, tôi và đồng đội tôi là Đào Thị Sới quê xã Phú Lạc, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ dùng chung. Hai chúng tôi đã từng thay nhau đeo đôi dép này ở Trường Sơn. Ngày ấy, chị em chúng tôi toàn được cấp phát dép cao su đúc và giầy cao cổ, dép nhựa hiếm lắm. Hai đứa chúng tôi chỉ được đeo dép nhựa trong những ngày được nghỉ hoặc có đồng hương đến chơi để thể hiện nữ tính một chút. Khi chia tay, Sới cầm đôi dép ngắm nghía hồi lâu rồi nói với giọng xúc động: “Đôi dép này đã từng in dấu chân hai đứa chúng mình, giờ tao giao nó cho mày, hãy giữ gìn cẩn thận nhé!”. Tôi đã giữ đôi dép từ ngày ấy, nhiều người khuyên tôi hãy hiến vào bảo tàng nhưng tôi không muốn rời xa nó vì đôi dép này chứa đựng nhiều kỷ niệm vui buồn. Nó đã in dấu chân hai chúng tôi trên dải Trường Sơn hùng vĩ một thời con gái. Cuộc đời tôi đã nhiều lần chuyển nhà, tôi có thể bỏ lại những thứ khác, nhưng đôi dép thì không. Đôi dép này, đã gắn bó bên tôi theo năm tháng của cuộc đời quân ngũ, ở chiến trường ác liệt đạn bom. Đó là những ký ức không bao giờ tôi quên!
Gặp gỡ thương binh 1/4 La Văn Loan, quê ở xã Hải Lựu, huyện Sông Lô tỉnh Vĩnh Phúc, hiện đang được điều dưỡng tại Trung tâm Điều dưỡng Người có công tại tỉnh Phú Thọ. Bác chia sẻ: Để có được chiến thắng vẻ vang ngày 30/4/1975, bao đồng đội của tôi đã ngã xuống, chiến tranh tàn khốc lắm! Chúng tôi phải hành quân 5 - 6 tháng trời từ Bắc vào Nam chiến đấu với bao khó khăn dịch bệnh, đói rét, nhiều đồng đội hy sinh trong khi hành quân. Đơn vị tôi trực tiếp tham gia chiến đấu tiến đánh mũi Long Khánh, đây là trận địa ác liệt nhất đánh vào Sài Gòn. Trong trận chiến ác liệt nhiều đồng đội đã hy sinh, nhưng không làm nản tinh thần ý chí chiến đấu, chúng tôi cùng nhau xả thân quyết tâm đánh thắng quân thù với mong muốn nước nhà giành độc lập để được đoàn tụ cùng gia đình. Khi nghe tin Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, miền Nam được giải phóng chúng tôi khóc vỡ oà vui sướng. Cả thành phố Sài Gòn tưng bừng cờ hoa, quân dân một nhà mừng vui ngày chiến thắng, chúng tôi hả hê thấy những tên lính nguỵ thất trận bỏ của trốn chạy, đồ đạc chúng vứt đầy thành phố Sài Gòn”. Bác Loan dừng lại lấy một bức ảnh ra giới thiệu: “Đây là tôi lúc đó tiến quân vào giải phóng Sài Gòn thấy chiếc xe máy của nguỵ bỏ lại lấy chụp ảnh, giờ nhìn lại tấm ảnh này tôi vẫn thấy bừng bừng khí thế mừng vui ngày chiến thắng. Đó là một ngày không thể quên với tôi suốt cuộc đời này”.
Đã 50 năm qua đi nhưng tinh thần chiến thắng bất diệt 30/4/1975 vẫn tỏa sáng. Những thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta với những trang sử chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc. Phát huy truyền thống dân tộc, trong thời đại ngày nay, sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động của mỗi người Việt Nam chắc chắn sẽ vẫn là nhân tố tạo thành sức mạnh tổng hợp giúp đất nước ta, nhân dân ta tiếp tục vượt qua khó khăn viết tiếp những trang sử mới, bước vào “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”.
T.L