icon menu
,  
icon menu
Trang chủ
Tin Tức - Sự kiện icon right
Phú Thọ hôm nay
Văn hóa - Xã hội
Kinh tế - KHCN
Hoạt động Hội
Đất Tổ Vua Hùng icon right
Tích xưa cội nguồn
Phú Thọ trong dòng chảy văn hóa
Check-in Phú Thọ
Media icon right
PODCAST
Video
Thư viện ảnh
INFOGRAPHIC, MEGASTORY
Văn học icon right
Truyện, tiểu thuyết
Thơ
Văn học nước ngoài
VHNT các dân tộc thiểu số
Phê bình - Giới thiệu icon right
Nghiên cứu
Tiếng nói văn nghệ sỹ
Tác giả - Tác phẩm
Sáng tạo và cống hiến
Chuyện làng văn nghệ
Nghệ thuật icon right
Mỹ thuật
Nhiếp ảnh
Âm nhạc - Múa
Sân khấu
Bút ký văn học icon right
Sắc màu cố đô Văn Lang
Ẩm thực
Du lịch
Rực rỡ vùng cao
Văn nghệ cấp huyện icon right
Hoạt động
Tác giả, tác phẩm tiêu biểu
Tin Tức - Sự kiện
Phú Thọ hôm nay
Văn hóa - Xã hội
Kinh tế - KHCN
Hoạt động Hội
Đất Tổ Vua Hùng
Tích xưa cội nguồn
Phú Thọ trong dòng chảy văn hóa
Check-in Phú Thọ
Media
PODCAST
Video
Thư viện ảnh
INFOGRAPHIC, MEGASTORY
Văn học
Truyện, tiểu thuyết
Thơ
Văn học nước ngoài
VHNT các dân tộc thiểu số
Phê bình - Giới thiệu
Nghiên cứu
Tiếng nói văn nghệ sỹ
Tác giả - Tác phẩm
Sáng tạo và cống hiến
Chuyện làng văn nghệ
Nghệ thuật
Mỹ thuật
Nhiếp ảnh
Âm nhạc - Múa
Sân khấu
Bút ký văn học
Sắc màu cố đô Văn Lang
Ẩm thực
Du lịch
Rực rỡ vùng cao
Văn nghệ cấp huyện
Hoạt động
Tác giả, tác phẩm tiêu biểu
    1. Trang chủ
    2. Sân khấu
    Mấy nhân vật lịch sử Đại Việt trong thơ Hà Nhậm Đại
    GS TS TRƯƠNG SỸ HÙNG | 03/05/2024 10:54
    In trang

    Hà Nhậm Đại ( 何任大 ; 1525-? ), hiệu Hoằng Phủ, người xã Bình Sơn, huyện Lập Thạch (nay thuộc thôn Sơn Cầu, thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc). Sinh trưởng vào khoảng giữa thế kỹ XVI, Hà Nhậm Đại đã thi đỗ học vị tiến sĩ năm 1574, được chính quyền đương thời bổ nhiệm làm thượng thư thời nhà Mạc. Song hành với đời sống quan chức, Hà Nhậm Đại còn là một nhà thơ nổi tiếng với tác phẩm Lê triều khiếu vịnh thi tập – theo lối thơ vịnh sử -  ca ngợi và thể hiện cách đánh giá nhân vật lịch sử, theo chủ quan cá nhân về các danh nhân, từ Lê Thái Tổ đến Lê Cung đế.

     

     Tài liệu cũ không cho phép xác định được năm mất của Hà Nhậm Đại, nhưng niên lịch ghi ở cuối bài tựa tập thơ là 1590 - vậy năm ấy nhà thơ 65 tuổi. Chắc chắn rằng, thơ văn Hà Nhậm Đại còn nhiều tác phẩm bị mất hiện không tìm được, bởi106 bài thơ thất ngôn, tuyệt cú, mỗi bài vịnh một nhân vật trong Lê triều khiếu vịnh thi tập Hà Nhậm Đại chỉ “nêu những sự tích triều Lê đáng để khuyên răn” và tác giả chủ ý “nối tiếp thể vịnh sử của Đặng Minh Khiêm, nhằm giáo huấn người đời theo đạo đức chính thống”. Tự hào về những anh hùng hào kiệt trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, về các nhà văn hoá, các nhà kinh bang tế thế có công dựng nước, an dân, các sứ thần lĩnh trọng trách ngoại giao làm sang danh quốc thể, góp phần giữ vững độc lập chủ quyền đất nước. Làm quan cho nhà Mạc, nhưng Hà Nhậm Đại không làm thơ ca ngợi những thế lực đương triều. Ông trở về với đề tài lịch sử vẻ vang của cả triều đại nhà Lê.

    Từ nửa sau thế kỷ XV vua Lê Thánh Tông (1442 - 1497) đã coi trọng giáo dục đào tạo nhân tài cho đất nước, một lòng một dạ với sự nghiệp kiến thiết xây dựng đất nước phồn thịnh. Đại Việt thanh bình phát triển toàn diện, hưng thịnh nhất và đạt đến đỉnh cao trong đời sống kinh tế, văn hóa xã hội. Thời Lê sơ, nhà vua thi sĩ Lê Thánh Tông đã tuyển dụng nhân tài, sử dụng nhân tài hết sức mềm dẻo và khéo léo, khiến nhiều nhân sĩ trí thức có cơ hội được trổ tài kinh bang tế thế, hết lòng hết sức phấn đấu cho sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh thịnh vượng. Tham chính trong  bộ máy chính quyền Quang Thuận (1460 - 1469) và Hồng Đức (1470 - 1497), Thân Nhân Trung (1419 - 1499); tác giả câu danh ngôn: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, đã hưởng ứng tích cực việc đề cao việc giáo dục đào tạo của nhà vua, đề ra nhiệm vụ cụ thể của kẻ sĩ đối với đất nước. Thân Nhân Trung cho rằng: “Trị nước càng thịnh vượng lòng càng phải thận trọng, càng phải lo cho dân, chăm chỉ chính sự hàng ngày nơm nớp lo lắng”. Người ở ngôi cao phải luôn ghi nhớ. Đương thời, vua Lê Thánh Tông làm Đô Nguyên suý trong hội Tao Đàn; Thân Nhân Trung làm Phó Đô Nguyên suý cũng nói rõ điều tâm đắc của mình.

    Tinh thần yêu nước là tư tưởng xuyên suốt sự nghiệp và thơ văn Thân Nhân Trung, kể cả trong trong lúc vua tôi ngâm vịnh thù tạc. Lúc nào và ở đâu Thân Nhân Trung vẫn thể hiện một tình thương sâu sắc với nhân dân lao động, một ý thức trách nhiệm cao với vị trí mổ quan chức có tâm có đạo. Với tư cách là một nhà khoa bảng, Thân Nhân Trung cũng là một tấm gương sáng về tinh thần hiếu học. Hai người con của ông là Thân Nhân Tín, Thân Nhân Vũ và cháu nội Thân Cảnh Vân đều noi gương ông, gắng công học tập và đều đỗ đại khoa trong các kỳ thi của triều Lê. Hà Nhậm Đại có bài thơ vịnh Thân Nhân Trung:

    Thiên tương hiền tá vị thời sinh

    Độc thiện Tao đàn đệ nhất danh          

    Đương thế văn chương chân đại thủ     

    Nhất môn phụ tử bội ân vinh.

    Chúng tôi tạm dịch:

    Trời sinh ra bậc hiền tài

    Bảng tên giỏi nhất xứng vai tao đàn

    Văn chương thời ấy ai hơn

    Cha con hiển đạt nhờ ơn thấm nhuần.

    Lương Đắc Bằng (1472 - 1522), người làng Hội Trào (nay thuộc xã Hoằng Phong, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hóa), lúc nhỏ nổi tiếng là người hay chữ, đỗ bảng nhãn năm Kỷ Mùi 1499. Quan chức được thăng Tả Thị Lang bộ Lễ, và Lại bộ Thượng thư, kiêm Đông Các Đại học sĩ, tước Đôn Trung bá, từ thời Lê Hiến Tông (1497 - 1504) đến Lê Tương Dực (1510 - 1516). Năm 1510, ông thảo hịch Trị bình thập tứ sách gồm 14 đề mục chính để giúp vua cai trị và tạo thái bình không được, ông khởi binh đánh đổ ngôi vua, đưa Lê Tương Dực lên ngôi. Nhưng tình hình càng rối ren hơn.

    Là một đại thần tính cương trực, khinh ghét những kẻ lập bè phái, được vua và quan chức trong triều và hầu hết dân chúng đều kính trọng. Được cử đi sứ Trung Hoa, ông luôn làm tròn sứ mệnh ngoại giao. Song, triều đại nhà Lê đã đến lúc suy vong, dù ông có đem hết tâm sức ra giúp nước cũng không thể cứu vãn được tình thế.”... Thời bấy giờ vua thì hoang chơi, triều thần thì tuy là có bọn ông Nguyễn Văn Lang, ông Lê Tung, ông Lương Đắc Bằng, v.v... nhưng người thì già chết, người thì xin thôi quan về. Vả cũng không có ai là người có thể ngăn giữ được vua và kinh doanh được việc nước, cho nên trong nước giặc giã nổi lên khắp cả mọi nơi” (1).

    Trị bình thập tứ sách được vua khen ngợi nhưng không thi hành. Lương Đắc Bằng cáo quan về quê dạy học và nghiên cứu Kinh dịch. Tương truyền trong một dịp đi sứ, ông kiếm được sách Thái Ất thần kinh mang về. Bản tính thanh liêm và trọng đạo đức, dù làm quan lớn mà gia cảnh vẫn nghèo, con phải đi cày cấy, gặt thuê kiếm sống. Thấy học trò Nguyễn Bỉnh Khiêm tính tình khoáng đạt thông tường lý số, thầy Lương Đắc Bằng  truyền dạy hết sức và tặng sách Thái Ất thần kinh. Khi Nguyễn Bỉnh Khiêm đỗ Trạng nguyên, làm quan đến chức Lại bộ Thượng thư nhà Mạc, tước Trình Quốc Công, người đời thường gọi là Trạng Trình; ông lấy cảm hứng từ sách ấy mà sáng tạo Sấm Trạng Trình: tiên đoán việc đời trước, sau mấy trăm năm. Hà Nhậm Đại có thơ vịnh:

    Thanh thời cập đệ thế vinh quan                 

    Luận gián trung ngôn bính nhược đan

    Trấp tứ sách vô tòng nhất sách                    

    Đương thời vật quái trị bình nan                   

    Chúng tôi tạm dịch:

    Vinh hiển sao, thi đậu thời bình

    Tôi trung can gián tấm lòng son

    Hai bốn lời tâu không được một

    Trị bình chẳng được lại khóc than!

    Trần Nguyên Hãn (1390 - 1429), võ tướng thời khởi nghĩa Lam Sơn, người có nhiều đóng góp trong sự nghiệp đánh thắng giặc Minh; phần viết về tiểu sử và những nhận định chủ quan thể hiện rõ sự quan tâm đặc biệt của tác giả Lê triều khiếu vịnh thi tập đến người đồng hương. Hà Nhậm Đại viết: “Ông người huyện Lập Thạch, dòng dõi vương Trần Hưng Đạo. Ông học binh pháp tinh thông, thấy quân Minh sang xâm lược nước Nam, thường có ý cứu dân. Có đêm ông đến cầu đảo ở đền Bạch Hạc, thấy vị thần núi Tản Viên báo cho vị thần Bạch Hạc rằng: “- Đấng thượng đế đã hội họp, cử Lê Lợi người Lam Sơn làm vua nước An Nam, vì thế ông tìm vào Thanh Hóa cùng Thái Tổ mưu toan khởi binh. Hãn đem quân và voi đánh Tân Bình, Thuận Hóa, sau đó lãnh một đạo binh đánh Nghệ An, vây thành sông Mã, cắt đứt đường tiếp lương, đánh tan quân thủy của địch. Nói chung Hãn phần nhiều lập công trong khi đánh dẹp các thành. Ông nhất trí với vua Lê Thái Tổ lập Trần Cảo để thỏa mãn lòng mong muốn của dân. Thái Tổ cử Hãn làm chức đại tư đồ tướng quốc. Trước khi giặc rút về nước, ngày làm lễ tuyên thệ, Hãn là một người trong đó. Đến khi Thái Tổ lên ngôi, Trần Cảo bị giết, Hãn rất bất bình, bèn xin về hưu. Thái Tổ đồng ý cho ông nghỉ việc, hàng năm hai lần vào triều bái yết mừng vua. Hãn về nhà dốc sức vào việc xây dựng nhà cửa, dùng gạch hoa và đóng chiến thuyền, đánh khí giới, có người đem tình hình ấy báo với nhà vua, rằng Hãn định mưu làm phản. Nhà vua sai sứ thần đến xét hỏi và triệu Hãn về. Hãn đi đến bến đò Đông Sơn Hạ, khấn trời rằng: “- Thần với Lê Lợi cùng mưu cứu dân, nay đại nghĩa đã định, mà vua thì muốn giết thần, xin soi xét cho”. Vừa khấn xong bỗng nổi cơn gió lớn lật đắm thuyền, bốn mươi hai người lực sĩ và Hãn đều bị chết đuối. Nhà vua hạ chiếu xuống tịch thu ruộng nương tài sản và vợ con của Hãn, đến năm Mậu Dần, niên hiệu Diên Ninh mới được trả lại. Hãn khi chết hiển linh, nhân dân lập đền thờ cúng(2). Có lẽ những trang viết về hành trạng cuộc đời của Trần Nguyên Hãn là dài nhất, Hà Nhậm Đại đã rà soát kỹ chi tiết trong thư tịch để chiêu tuyết cho một đại công thần thời Lê xuất thân từ quê hương Vĩnh Phúc, hẳn là không một chút thiên vị. Bài thơ vịnh nhân thần Trần Nguyên Hãn, ông viết:

    Vương nghiệp kinh doanh dự thủy mưu

    Tọa giao bá Việt dữ bình Ngô                                  

    Long nhan tảo thức đồng ô trác                                

    Hà bất biên chu phiếm Ngũ Hồ                                 

    Chúng tôi tạm dịch:

    Nghiệp vua chung dựng ban sơ

    Hùng cường nước Việt, nước Ngô rã rời

    Mặt rồng tướng mỏ quạ hôi

    Thuyền không sao chẳng đi chơi Ngũ Hồ?

    Trịnh Khả người làng Kim Bôi, huyện Vĩnh Ninh (nay thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa) là một tướng lĩnh tài ba thao lược. Năm 1416, Trịnh Khả tìm đến với Lê Lợi cùng 19 người khác lập hội thề Lũng Nhai. Mồng 2 Tết Mậu Tuất - tức ngày 7/2/1418 - Lê Lợi tổ chức lễ tế cờ, tuyên thệ mở đầu cuộc khởi nghĩa chống giặc Minh đô hộ. Ngày 14/2/1418, đô đốc Chu Quảng cầm đầu, từ thành Tây Đô tấn công vào thành Lam Sơn. Nghĩa quân Lam Sơn đã chiến đấu rất dũng cảm, nhưng không chống cự nổi, rút lui về Mường Một. Chúng ráo riết đuổi theo, Lê Lợi lại rút quân khỏi Mường Một, chốt lại tại Lạc Thủy ở thượng nguồn sông Chu. Lũ giặc vẫn hùng hổ kéo đến Lạc Thủy, định tiêu diệt lực lượng nghĩa quân. Tại đây Lê Lợi đã bố trí sẵn một “trận đồ bát quái” mai phục đón đánh. Giặc Minh tự dẫn xác đến, bị thua đau tan tác.

    Giặc Minh theo sự chỉ dẫn của hai tên Việt gian, kéo đến xứ Phật Hoàng, khai quật mộ của thân phụ Lê lợi, lấy tiểu đựng hài cốt mới cải táng; để trên thuyền lơ lửng giữa sông, canh gác thật cẩn thận và kêu gọi Lê Lợi ra hàng. Không nao núng trước dã tâm xâm lược ươn hèn của chúng, Lê Lợi liền “sai hai người là Trịnh Khả và Lê Bị, tức Bùi Bị đội nghi trang, bơi dọc theo sông đến bến Dao Xá Thượng, rình lúc giặc ngủ say, leo lên thuyền lấy được tiểu đựng hài cốt thân phụ đem về. Vua mừng rỡ, trọng thưởng cho cả hai người rồi rước tiểu đựng hài cốt ấy đem về xứ Phật Hoàng, táng lại như cũ”(3).

    Mưu trả thù không thành, giặc Minh liền đánh vào Lam Sơn lần thứ hai, khiến quân tổn thất nặng nề. Vợ con và nhiều người trong gia quyến của Lê Lợi bị bắt. Nhiều nghĩa sĩ đã hi sinh. Lê Lợi đưa toàn bộ lực lượng lên núi Chí Linh, tìm  người giỏi thuyết phục Ai Lao ủng hộ. Trịnh Khả là người có biệt tài ứng đối, thông thạo tiếng Lào, nắm vững đường sang nước bạn, Lê Lợi cử ông làm sứ giả. Triều đình Ai Lao đồng ý giúp Lam Sơn một số quân và voi chiến, khí giới... cộng với năm tháng lương ăn. Như vậy, Trịnh Khả đã góp phần quan trọng vào việc phục hồi sức lực cho nghĩa quân Lam Sơn. Tháng 10 năm 1424, Lê Lợi cho quân ồ ạt tấn công vào Nghệ An. Trịnh Khả là một trong những tướng lĩnh có may mắn được cầm quân tham gia cuộc tấn công.

    Ông trực tiếp đánh nhau giáp lá cà với giặc “đến mấy mươi trận lớn nhỏ” (4) và trận nào ông cũng là người “xung phong lên hãm giặc, lập công to” (5). Lê Lợi đánh giá cao khả năng đa tài của Trịnh Khả. Tuy chỉ vỏn vẹn có hơn 3.000 quân và một thớt voi, nhưng đạo quân thứ nhất đạo do Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả, Lý Triện và Đỗ Bí chỉ huy đã lập được nhiều chiến công xuất sắc. Chỉ trong một tháng, đạo quân này đã đánh thắng ba trận lớn: Ninh Kiều tháng 9 năm 1426. Nhân Mục tháng 10 năm 1426 và trận Xa Lộc - còn có tên gọi Đồng Rọc - tháng 10 năm 1426. Trịnh Khả là tướng chỉ huy hai trong số ba trận đánh là trận Ninh Kiều và trận Xa Lộc. Ở trận Ninh Kiều, tướng Phạm Văn Xảo lừa giặc vào trận địa còn các tướng Trịnh Khả, Lý Triện và Đỗ Bí chỉ huy phục binh, bất ngờ đánh cho Trần Trí thua trận, giết tại chỗ hơn 2.000 tên. Tướng Trần Trí hốt hoảng tháo chạy về Đông Quan. Ngay sau trận thắng lớn này, Ninh Kiều được nhanh chóng xây dựng thành một khu căn cứ rất lợi hại của nghĩa quân Lam Sơn. Để thực hiện nhiệm vụ quan trọng thứ hai là sẵn sàng chặn đánh viện binh của giặc  đến bất cứ lúc nào các tướng chỉ huy đạo quân thứ nhất đã chia quân làm hai bộ phận đóng giữ ở  hai địa điểm khác nhau. Một vẫn đóng ở Ninh Kiều, do các tướng Lý Triện và Đỗ Bí cầm đầu. Bộ phận thứ hai tiến lên vùng Tam Giang (nay thuộc Bắc Ninh), do Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả chỉ huy; và hai ông  đã đánh thắng trận lớn thứ  hai ở Xa Lộc tiêu diệt viện binh giặc do tướng Vương An Lão cầm đầu. Sau trận Xa Lộc, Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả lại một bộ phận nhỏ tiếp tục bao vây uy hiếp thành, còn phần lớn quân số rút về Ninh Kiều, chuẩn bị ứng phó với tình thế  mới. Đạo quân thứ  nhất tuyãđ có thêm sự tiếp ứng của các tướng. Đinh Lễ và Nguyễn Xí, nhưng gộp tất cả lại, tướng sĩ Lam Sơn vẫn còn quá ít so với tổng quân số của giặc. Kế sách“dụng đoản binh, đánh trường trận” của các tướng Phạm Văn Xảo, Lý Triện, Đỗ Bí Đinh, Lê  Nguyễn Xí... Trịnh Khả đã góp phần quan trọng vào việc phá vỡ thế trận của giặc đập tan mưu đồ cướp nước của Vương Thông. Một trong những vị tướng chỉ huy xuất sắc của trận quyết chiến chiến lược Tốt Động - Chúc Động (1426) chính là Trịnh Khả. Lê Quý Đôn xác nhận “Lúc bấy giờ  ông  - tức Trịnh Khả - cùng Văn Xảo, Triện, Bí và  Lễ... đều là danh tướng một thời, luôn đồng tâm hiệp lực khi thì bí mật bất ngờ, khi thì công khai đối mặt, ứng biến thật khôn lường, thừa cơ thật đúng lúc. Tất cả, nhanh như cắt, mạnh như tên, hễ đánh là thắng”(6).

    Tháng 10 năm 1427 Vương Thông bị vây hãm trong thành Đông Quan, nhà Minh sai Liễu Thăng và một loạt tướng lĩnh có tiếng đem 15 vạn quân tiến đánh Đại Việt. Một cánh quân nhỏ của nghĩa quân Lam Sơn được bố trí ở lại để tiếp tục bao vây, gọi hàng bọn giặc đang cố thủ trong thành. Phần lớn lực lượng tinh nhuệ đã và đang được huy động vào việc thực hiện hai nhiệm vụ cấp bách: đón đánh và tiêu diệt hai cánh quân viện binh nhà Minh; một đang vào ải Chi Lăng ở Lạng Sơn và tướng Mộc Thạnh dẫn 5 vạn quân hợp đồng tác chiến vào lối ải Lê Hoa ở Cao Bằng đang tiến vào Đại Việt.Hai tướng Trịnh Khả và Phạm Văn Xảo cầm quân chặn đánh. Liễu Thăng bị giết, cánh quân của Mộc Thạnh tiến vào nước ta qua ải Chi Lăng. Lê Lợi liền sai quân đem cờ biển, ấn tín của Liễu Thăng lên ải Lê Hoa để uy hiếp tinh thần giặc. Mộc Thạnh hoảng hồn tháo chạy về nước. Tháng 12 năm 1426, Vương Thông buộc phải cho quân rút khỏi nước ta. Năm 1428 Trịnh Khả được vua ban hàm Kim Tử Vinh Lộc Đại phu, Tả Lân Hộ vệ Tướng quân, được ban túi Kim Ngư và Ngân Phù, chức Thượng Khinh Xa Kỵ Đô úy.“Ông cùng Phạm Văn Xảo thừa thế phá tan giặc ở Lãnh Câu và Đan Xá, chém hơn 1 vạn tên, bắt sống được hơn 1 vạn tên, còn ngựa và các thứ quân trang khí giới thì nhiều không kể xiết” (7).

    Năm 1429, nhà Lê dựng biển khắc ghi tên tuổi của các khai quốc công thần, trong đó có Trịnh Khả được phong tước liệt hầu, chức đô thái giám, cai quản việc quân, kiêm giữ chức trấn thủ Tuyên Quang, sau  được thăng hành quân tổng quản xa chư quân sự, đồng tổng quản, trực tiếp coi các đội quân thiết đột. Năm 1434, ông xin nghỉ hưu không được, lại phải nhận chức trấn thủ Lạng Sơn, kiêm giữ đồng tổng quản vệ Nam Sách. Năm 1437 Lê Sát bị cách chức, bức tử, Trịnh Khả được gọi về triều, vua thăng hàm thiếu úy và giao quyền nắm giữ lực lượng quân thường trực của triều đình. Liên tục các năm ông được: 1442 nhận chức nhập nội tư mã. 1443 thăng tước quận Thượng Hầu. 1443 được cử làm tướng tiên phong cầm quân đánh thắng Chiêm Thành  được ban hàm nhập nội thiếu úy, kiểm hiệu bình chương quân quốc trọng, thượng trụ quốc và được thăng chức quốc thượng hầu.  

    Là người nghiêm nghị thẳng thắn và rất trung thành thanh liêm và tận tụy; nhưng cũng như không ít trung thần đương thời, Trịnh Khả chẳng khác gì cái gai trước mắt bọn tiểu nhân xu nịnh khi đất nước thanh bình. Năm 1451, có kẻ xấu phao tin ông và con trai Trịnh Quát âm mưu kết bè kết đảng mưu làm phản, thái hậu của Lê Nhân Tông đã xử tử cả hai cha con. Năm 1453, triều đình  minh oan cho ông và ban cho con cháu ông 100 mẫu ruộng hương hỏa. Trịnh Khả có tất cả 22 người con, gồm 13 con trai và 9 con gái. Trong số 13 người con trai này, sử cũ còn ghi lại được tên và chức tước của 10 người (8). Về nhân vật Trịnh Khả, Hà Nhậm Đại đề vịnh:

    Thân liên phế phủ quốc mưu đồng                                                       

    Mậu tán đương thời bát loạn công                 

    Lũy thế đệ huynh câu quý hiển                      

    Tử tôn để sự thế gia phong

    Bản dịch trong Tổng tập văn học Việt Nam:

    Tâm phúc tình thân lưu việc nước

    Công lao phò tá diệt can qua

    Anh em quý hiển đời liên tiếp

    Con cháu cam tâm bỏ nếp nhà! (9)

    Điểm xuyết mấy câu thơ của các quan văn là thời Lê - Mạc, Trịnh như Nguyễn Trãi, Thân Nhân Trung, Lương Đắc Bằng, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng Khắc Khoan; tìm hiểu tài liệu về hành trạng cuộc đời hai vị tướng võ: Trần Nguyên Hãn do Hà Nhậm Đại viết và Trịnh Khả do Lê Quý Đôn viết đặt cạnh nhau để thấy công phu nghiên cứu thư tịch và nhãn quan của Hà Nhậm Đại - khi viết thơ  vịnh sử. Thấ rõ định hướng tìm hiểu của tác giả Hà Nhậm Đại có thể  lướt qua phần tiểu sử của nhân vật được ông làm thơ vịnh với tùy từng nhân vật. Nhân vật nào đã được sử sách các đời trước ghi chép kỹ thì ông kiệm lời, nhân vật nào ông thấy hành trạng cuộc đời còn sơ sài thì ông gắng tìm cho được tư liệu trong dân gian và những ghi chép tản mạn rồi lập nên những trang mới có giá trị khoa học. Đặc biệt là tiêu chí nhân vật phải là điển hình cho một tầng lớp, giới hạng nhất định, nhằm tổng kết thành một bài học có ý nghĩa giáo dục. Ông chọn lối thơ vịnh sử như Đặng Minh Khiêm, dường như để bổ khuyết về  các nhân vật lịch sử dân tộc đã từng có sự nghiệp lưu danh hậu thế. Dừng lại tìm hiểu lai lịch vua Lê Thánh Tông, Hà Nhậm Đại khẳng định mong ước có một chế vua sang, tôi hiền, đời sống dân sinh no ấm. Song tỏ thái độ phê phán sự suy đồi phong tục tốt đẹp của dân Đại Việt từ vua quan một thời Hà Nhậm Đại viết trong bài Vịnh Đỗ Nhân:

    Gặp cơn triều chính nát như tương

    Tiếng nói trung thần đã vọng vang

    Tiếng thơm muôn thuở còn gương tỏ

    Con cháu truyền gia mạch thư hương.

       (Bản dịch Tổng tập văn học Việt Nam sách đã dẫn).

                                                                           T.S.H

     

    (1) Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Nxb Tân Việt, Sài Gòn, 1949.

    (2) Lam Sơn thực lục, phong cho ông hàm thái giám. Tháng 9 năm 1426 một loạt tướng lĩnh Lam Sơn cùng với hơn 1 vạn nghĩa sĩ được lệnh hành quân ra Bắc, chia là ba đạo khác nhau, tiến sâu vào vùng bị quân Minh chiếm đóng, tìm cách uy hiếp sào huyệt lớn nhất của kẻ thù trong thành Đông Quan. Trịnh Khả cùng các tướng Phạm Văn Xảo, Lý Triện và Đỗ Bí, chỉ huy một trong số ba đạo quân đó. Đạo quân này có nhiệm vụ uy hiếp mặt nam của thành Đông Quan, sẵn sàng chặn đứng lực lượng viện binh của giặc, có thể sẽ tràn từ Vân Nam sang.

    (3), (4), (5) (6,), (7), (8) Lê Quý Đôn, Đại Việt thông sử, Nxb. Khoa học xã hội, H, 1978.

    (9) Bùi Duy Tân chủ biên, Tổng tập văn học Việt Nam, tập 5, Nxb Khoa học Xã hội, H, 2000.

     

    Chia sẻ
    TIN KHÁC
    img
    Những trái thuỷ lôi
    img
    Xóm Hoè - nơi Bác dừng chân
    img
    Biển thiêng
    img
    Xứng với niềm tin
    img
    Xóm trọ mùa Covid
    img
    Nước ngọt ở Trường Sa
    img
    Công dân làng biển
    img
    Bóng ma trên đảo
    img
    Tình người Đất Tổ
    img
    Mẹ đến Trường Sa
    Xem thêm

    Hội nghị "Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về gắn bó mật...

           Ngày 6/6/2025, Hội Liên hiệp VHNT Phú Thọ đã tổ chức buổi học tập chuyên đề năm 2025: Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về...

    7 văn nghệ sĩ Phú Thọ đoạt giải Giải thưởng sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo...

    Đúng dịp kỷ niệm 135 ngày sinh nhật Bác Hồ kính yêu, tối 19/5/2025, tại Hà Nội, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương tổ chức Lễ trao Giải thưởng sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo...

    Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW và Nghị quyết số...

    Sáng 18/5/2025, tại Phòng họp Diên Hồng (Nhà Quốc hội), Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức Hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW, ngày 30-4-2025 của Bộ Chính trị...

    Hội thảo “50 năm Văn học Nghệ thuật Phú Thọ đồng hành cùng đất nước”

    Trải qua 50 năm xây dựng và trưởng thành, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật (VHNT) Phú Thọ đã làm tốt chức năng tập hợp, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ Phú Thọ ngày càng lớn mạnh. Dưới mái...
    CƠ QUAN NGÔN LUẬN CỦA HỘI LIÊN HIỆP VĂN HỌC NGHỆ THUẬT PHÚ THỌ
    Tổng biên tập: Nhà văn NGUYỄN THỊ HỒNG CHÍNH
    Mọi thông tin, sao chép, khai thác tổng hợp phải ghi rõ nguồn Tạp chí Văn nghệ Đất Tổ online và phải được Tạp chí cho phép bằng văn bản
    CHUYÊN MỤC
    Tin tức - sự kiện Phú Thọ hôm nay Văn hóa - xã hội Kinh tế - KHCN Hội Liên hiệp VHNT Tạp chí in Văn nghệ cấp huyện
    Đất Tổ Vua Hùng Media Văn học Phê bình - Giới thiệu Nghệ thuật Bút ký văn học Thông tin đơn vị, doanh nghiệp
    THÔNG TIN LIÊN HỆ
    Địa chỉ: Tạp chí Văn nghệ Đất Tổ Online
    Điện thoại: 0210.3811984; 3816945
    Email: tapchivannghedatto@gmail.com
    Giấy phép số 486/GP-BTTTT, ngày 10/10/2022 của Bộ Thông tin và Truyền thông về việc cho phép Tạp chí Văn nghệ Đất Tổ hoạt động 02 loại hình là: Tạp chí in và Tạp chí điện tử
    LIÊN HỆ QUẢNG CÁO
    Liên hệ quảng cáo:
    Thông tin liên hệ gửi bài cho Tạp chí

    Số lượt truy cập: