Văn hóa thường mang tính toàn vẹn, bởi vì chủ thể hoạt động không phải là một cá nhân riêng lẻ; cũng không phải là một nhóm cá nhân hoạt động trong một ngành sản xuất nào đó mà là toàn bộ tổng thể những cá nhân tham gia vào nền sản xuất xã hội. Văn hóa sẽ biểu hiện cho toàn bộ tổng thể những mối liên hệ và quan hệ xã hội giữa con người với nhau trong một hệ thống sản xuất cụ thể - lịch sử.
Nếu xem xét toàn diện các hoạt động xã hội của con người thì văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần đều có mối quan hệ biện chứng. Văn hóa là sự tự phát triển của bản thân con người trong quá trình tiến hóa, vươn tới hoàn thiện năng lực người, bản chất người. Với tư cách là một chủ thể xã hội hoạt động, năng lực chủ yếu của con người là hoạt động có đối tượng (tức là luôn hướng vào đối tượng). Năng lực nhận thức, đánh giá và sáng tạo đối tượng là nhu cầu hoạt động của con người.
Trong sự tồn tại của văn hóa, có văn hóa vật thể và phi vật thể. Văn hóa ở đây là quá trình con người đánh giá những năng lực bản chất của mình theo các thước đo, các chuẩn mực xã hội. Nội dung thực tế của văn hóa là sự phát triển bản thân con người với tư cách là con người xã hội. Sự phát triển những năng lực sáng tạo của con người chính là sự phát triển văn hóa của con người. Văn hóa với tư cách là sự phát triển năng lực bản chất người chính là tính toàn diện của các nhu cầu, những năng lực sáng tạo, các tư liệu tiêu dùng, các hình thức giao tiếp, sự phát triển nhân tố con người của lực lượng sản xuất và quan hệ xã hội cũng như quan hệ sản xuất. Văn hóa với tư cách là sự phát triển của bản thân con người chính là sức mạnh của con người đối với lực lượng của tự nhiên. Đó là sự phong phú về nhận thức, sự giác ngộ về chính trị, sự cao đẹp về đạo đức và sự xuất sắc về tài năng.
Có thể nói, cùng với quá trình cải tạo thế giới, con người đã nâng cao năng lực thể chất và tinh thần của mình. Khi tạo nên thế giới các đối tượng phong phú và đa dạng thì đồng thời, con người cũng tạo ra bản thân mình. Cho nên, khi sản xuất thế giới đối tượng thì con người cũng đồng thời sản xuất ra văn hóa; bởi vì quá trình ấy đã làm biến đổi hoàn cảnh. Những phẩm chất mới tạo ra những lực lượng mới, những quan niệm mới, những phương thức giao tiếp mới, nhu cầu mới, ngôn ngữ mới, biểu tượng mới. Vì thế có thể nói quan điểm giá trị coi văn hóa là biểu trưng của trình độ phát triển các quan hệ nhân tính thông qua cách thức hoạt động sống và sáng tạo theo chuẩn chân - thiện - mỹ luôn có nội dung xã hội cụ thể.
Theo quan điểm giá trị học mác xít, văn hóa là những tương tác do con người tạo ra nhằm thể hiện năng lực của con người để biến cải bản thân con người với tư cách là sự hình thành lịch sử hiện thực của con người. Có thể nói rộng ra, về phương diện giá trị học, văn hóa là một quá trình biến con người sinh học thành con người xã hội, tạo ra tư cách độc nhất vô nhị của con người là một cá nhân toàn vẹn, một chủ thể năng động của các quá trình vận động lịch sử.
Cội nguồn của mọi hiện tượng văn hóa đều gắn con người với tự nhiên, với xã hội, với sự tự phát triển của bản thân con người. Văn hóa là thế giới của con người, do con người sáng tạo ra và vì sự sinh tồn cũng như giao tiếp của con người. Chính vì thế mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Như vậy, theo cách tiếp cận giá trị học mácxít thì văn hóa là toàn bộ những giá trị mà con người đã tạo ra. Nó là bản sao của hoạt động người và trở thành giới tự nhiên thứ hai của con người. Văn hóa là toàn hệ thống giá trị vật chất và giá trị tinh thần mà con người sáng tạo ra như những phương thức lao động tác động vào tự nhiên, các hình thức sinh hoạt, các thể chế, kiến thức, ngôn ngữ, kỹ năng, chuẩn mực, tín ngưỡng, tập quán... mà người ta có thể nhận biết được ở mọi thời đại.
Con người có một kết cấu đặc biệt mà Ph.Ăngghen đã miêu tả trong tác phẩm Biện chứng tự nhiên là các cẳng chân, bàn chân, ngón tay cái có trụ xoay, thế đứng thẳng, sống thành nhóm, bộ óc lớn, có các chương trình sinh sản chủ động, nuôi dạy con cái dài ngày và đặc biệt là biết chế tác, sáng tạo công cụ lao động. Từ cơ chế sinh học này, con người trở thành động vật duy nhất biểu trưng cho văn hóa. Trên quan điểm giá trị học mác xít thì đứa trẻ mới sinh ra chỉ hàm chứa những tiềm năng văn hóa. Để trở thành một nhân cách văn hóa, đứa trẻ phải tồn tại và lớn lên trong không gian sống của một cộng đồng xã hội, trong những phong tục, tập quán, những chuẩn mực, những giá trị đạo đức, pháp lý, những thành tựu của một nền văn hóa. Nhờ có sự kết hợp của bộ óc lớn với đôi bàn tay hữu ích mà con người có cách thức giao tiếp và sinh tồn mang các đặc trưng văn hóa. Những phát minh và sáng chế của não, bàn tay, cái lưỡi, ngôn ngữ, biểu tượng, đạo đức, lối sống... là vô vàn các sản phẩm văn hóa của con người. Mỗi thế hệ người sẽ trao truyền và bù đắp thêm các hình thức văn hóa đã có, tiếp tục nhận thức, sáng tạo và đánh giá trở thành sự kế thừa bất tận trong tiến trình phát triển.
Trên quan điểm giá trị học mác xít, văn hóa xuất hiện vừa là sự phát triển bản thân con người vừa là thành quả lao động của con người: các công cụ, kỹ thuật chế tác, tín ngưỡng, nếp sống, khoa học, văn học, nghệ thuật, đạo đức... xuất hiện như một môi trường mang giá trị nhân tạo. Văn hóa chính là tổng thể các giá trị do con người sáng tạo ra mà chính Tổng Giám đốc UNESCO Federico Mayor Zaragoza trong bài phát biểu chính thức phát động Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa 1988 - 1997 ở cuối thế kỷ XX đã khẳng định: “Văn hóa là một bộ phận không thể tách rời khỏi cuộc sống và nhận thức - một cách hữu thức cũng như vô thức - của các cá nhân và các cộng đồng. Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động và sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định tính riêng của mỗi dân tộc”.
Dù là ngôn ngữ, biểu tượng, tâm linh, xúc cảm, các trò chơi, khoa học, nghệ thuật, dù là giao tiếp hay sinh tồn thì văn hóa luôn luôn thể hiện bản chất xã hội. Văn hóa lan tỏa trong hầu hết các quan hệ xã hội. Nó gắn kết các hoạt động của con người với nhau tạo nên tập quán ứng xử, giao tiếp ngôn từ, biểu lộ xúc cảm, tín ngưỡng, tôn giáo.
Quan điểm mác xít khi nghiên cứu về ngôn ngữ loài người đã khẳng định: ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) là công cụ, là phương tiện của tư duy con người. Hơn thế, ngôn ngữ còn là sản phẩm của tư duy, là giao diện trí tuệ của cộng đồng xã hội cũng như một cá nhân con người. Khi nghiên cứu quá trình chuyển hóa từ vượn trở thành người, Ph.Ăngghen đã phát hiện ra rằng: chính lao động đã biến bộ óc của con vượn ra thành bộ óc của con người. Trong quá trình khám phá tác động vào tự nhiên để sinh sống và tồn tại, bầy người nguyên thủy đã thực hiện đồng thời ba động thái: nghĩ, nói và làm. Có thể thấy ba động thái này luôn gắn bó khăng khít và là tác nhân kích thích mạnh mẽ vào bộ óc con vượn và làm nên hành trình biến đổi, tiến hóa từ vượn trở thành người.
Quá trình sáng tạo ra tiếng nói là bằng chứng rõ rệt nhất về sự tiến hóa của bầy người nguyên thủy. Ngôn ngữ là phương thức miêu tả lại sự nhận thức của con người về thế giới khách quan cũng như thể hiện các quá trình tư duy âm thầm lặng lẽ trong đầu óc con người. Bắt đầu từ những âm thanh mang tính ký hiệu sinh học rời rạc, tiếng của bầy người nguyên thủy dần dần hình thành những âm thanh gọn gàng, rõ rệt (âm tiết) và không còn là những tiếng kêu đơn thuần nữa, trở thành hệ thống ký hiệu thứ hai đầy ý nghĩa.
Trong quá trình tiến hóa thành nhân loại, bầy người nguyên thủy còn liên tục sáng tạo ra tiếng nói sau này thêm cả chữ viết (tượng hình và tượng thanh) để trao đổi thông tin, ý nghĩ, kinh nghiệm sống. Nhu cầu lao động kiếm ăn, hái lượm, săn bắt thú để phục vụ cuộc sống sinh tồn buộc người ta phải nghĩ (tư duy) để rồi nói (phát âm, hiện thực hóa “ngôn ngữ thầm” thành âm thanh lời nói) nhằm thực hiện động tác làm (tức là lao động). Quá trình làm lại đòi hỏi người ta nghĩ để rồi lại nói. Cứ như vậy bộ óc của con người phát triển đồng hành với ngôn từ. Tư duy, trí tuệ, hiểu biết, quan niệm của con người luôn hiển thị trong hệ thống ngôn ngữ. Đây là cơ sở khoa học để cắt nghĩa sự phát triển văn hóa thông qua những khảo cứu về mặt ngôn ngữ của một cộng đồng xã hội. Tóm lại, văn hóa bao gồm các phương diện ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, lối sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, chính trị, tư tưởng... trong đó những yếu tố biến đổi theo thời đại như chính trị, tư tưởng, có những phương diện biến đổi chậm chạp như phong tục, tập quán, tín ngưỡng tôn giáo...
2. Ngôn ngữ - dòng chảy văn hóa
“Ngôn ngữ là một trong những yếu tố cấu thành văn hóa có sức lan tỏa sâu rộng trong đời sống xã hội, vì nó là hiện tượng thường xuyên tất yếu của đời sống con người. Không một lĩnh vực nào trong đời sống xã hội từ sản xuất kinh doanh đến nghiên cứu khoa học, đấu tranh chính trị xã hội, hoạt động nghệ thuật, tình cảm tâm linh mà không liên quan đến ngôn ngữ”(1).
Hầu hết, toàn bộ quá trình, tư duy, nhận thức, hiểu biết, quan niệm, quy ước cộng đồng của nhân loại được thể hiện trong ngôn ngữ. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp, chuyển tải thông tin, công cụ ghi nhận trình độ văn hóa và các sự kiện quan trọng trong tiến trình lịch sử nhân loại. Ngôn ngữ được xem như dòng chảy mạch ngầm văn hóa, chuyển tải hệ giá trị cốt lõi, chứa đựng những trầm tích sâu thẳm, lắng đọng, vừa cụ thể lại vừa trừu tượng của hệ giá trị văn hóa dân tộc. Trong xã hội hiện đại, người ta chỉ có thể nhận diện, tìm về quá khứ xa xưa khi tiếp cận, phân tích giải mã các văn bản ngôn từ, những di cảo còn lại của những thời đại đã qua.
Khảo sát các văn bản ngôn từ cổ xưa, có thể thấy ngôn ngữ thể hiện đặc trưng tư duy, trình độ trí tuệ, hệ thống quan niệm phong phú của tiền nhân về tự nhiên, xã hội và con người. Dáng hình của lịch sử dân tộc soi bóng xuống dòng sông ngôn từ miệt mài qua các bến bờ thời gian. Có thể nói rằng: bản sắc của văn hóa dân tộc được thể hiện qua những cánh rừng tiếng nói và chữ viết được con người “gieo trồng” theo thời gian và “vận thông” qua nhu cầu giao tiếp hàng ngày trong lối dùng từ, đặt câu; trong âm thanh ngữ điệu ngôn ngữ, trên những trang viết. Trên thực tế, tư tưởng, tình cảm, cách nghĩ, lối tư duy, cách nói của con người được thể hiện trong những hệ thống ngôn từ tinh hoa đã “trơ gan cùng tuế nguyệt”, được sàng lọc và đúc kết lại trong từ điển, trong các văn bản văn chương nghệ thuật cũng như các hình thức diễn ngôn khác.
Ngôn ngữ là dòng chảy văn hóa của dân tộc, chuyên chở phù sa giá trị tinh thần dân tộc từ cội nguồn xa xưa bồi đắp cho những đồng bằng châu thổ tâm hồn con người hiện đại. Trình độ văn hóa của con người luôn thể hiện trong khả năng ngôn ngữ. Tác phẩm văn chương nghệ thuật là những lớp sóng trên dòng sông ngôn từ dân tộc, đương nhiên đó còn là sản phẩm tinh thần của nhà văn. Khi biên soạn Từ điển Truyện Kiều, nhà nghiên cứu, giáo sư Đào Duy Anh đánh giá: “Trong lịch sử ngôn ngữ và lịch sử văn học, nếu Nguyễn Trãi với Quốc Âm thi tập là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học thì Nguyễn Du với Truyện Kiều lại là người đặt nền móng cho ngôn ngữ hiện đại nước ta. Với Truyện Kiều của Nguyễn Du có thể nói rằng ngôn ngữ Việt Nam đã trải qua một cuộc thay đổi về chất và đã tỏ rõ khả năng biểu hiện đầy đủ và sâu sắc”(2). Nhờ có những tác phẩm văn chương nghệ thuật xuất sắc mà văn hóa, văn học cũng như trí tuệ, cảm xúc của dân tộc sẽ bay vút lên những đỉnh cao chói lọi của lịch sử phát triển: Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc/ Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn (Chế Lan Viên - Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?).
Ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết) được xem là kênh truyền dẫn giá trị văn hóa dân tộc từ truyền thống đến hiện đại, là nơi trao truyền, giao lưu văn hóa các dân tộc trong các quan hệ quốc tế. Có lẽ vì thế mà ngoại ngữ là chiếc chìa khóa vàng mở ra những kho báu văn hóa của các dân tộc trên thế giới. Am hiểu một ngoại ngữ cũng có nghĩa là có cơ hội tiếp cận đến cả cấu trúc vĩ mô và vi mô của sinh thể văn hóa, và đương nhiên là sẽ được đối chứng so sánh hệ giá trị giữa các nền văn hóa, từ đó hoạt động giao lưu tiếp biến văn hóa sẽ diễn ra để cùng phát triển.
3. Vấn đề bảo vệ và phát triển ngôn ngữ dân tộc trong giao lưu văn hóa, hội nhập quốc tế hiện nay
Xét về mặt bản chất, văn hóa là hiện tượng xã hội phổ biến trong đời sống nhân loại. Trong lịch sử phát triển, bên cạnh tính nhân loại, mỗi nền văn hóa đều có tính chất cá biệt do sự mặc định về không gian, thời gian và in dấu chủ thể sáng tạo - chủ nhân của nền văn hóa đó.
Tính cá biệt của văn hóa tạo thành bản sắc văn hóa, yếu tố phân biệt văn hóa dân tộc này với văn hóa dân tộc khác. Ngôn ngữ là một trong những yếu tố cá biệt ấy. Tuy rằng các nền văn hóa thường có quan hệ giao lưu tương tác với nhau, có sự tiếp biến về ngôn ngữ, nhưng xét đến cùng thì ngôn ngữ vẫn là đặc trưng khó tan hòa nhất. Trong đời sống nhân loại, có thể tư duy về khái niệm thì tương đồng nhưng về ngôn từ diễn đạt, sắc thái biểu cảm giữa các cộng đồng ngôn ngữ thì không thể giống nhau tuyệt đối.
Quan điểm giá trị học mác xít khẳng định: văn hóa có tính độc lập tương đối, nhưng trong chiều sâu cốt lõi bên trong, văn hóa luôn mang tính dân tộc đậm đặc. Nói đến văn hóa là nói đến dân tộc. Tính dân tộc này thể hiện trước tiên ở truyền thống, ở sự bền vững và độc đáo. Truyền thống dân tộc được định vị bởi truyền thống văn hóa. Các cơ chế của truyền thống dân tộc được lưu giữ trong các truyền thống văn hóa. Văn hóa gìn giữ gương mặt của dân tộc, tiếp biến các giá trị mới làm đa dạng hóa truyền thống văn hóa, lưu giữ tính đặc thù dân tộc tạo ra sự khác biệt văn hóa vừa là nguồn cội của sự thống nhất trong đa dạng, vừa là gốc rễ của sự phát triển văn hóa.
Trong giao lưu hội nhập quốc tế, vấn đề biến đổi văn hóa thường xuyên diễn ra, đặc biệt là biến đổi về ngôn ngữ. Mỗi thế hệ người sẽ sử dụng ngôn ngữ theo dấu ấn thời đại của chính họ. Vấn đề bảo tồn di sản ngôn ngữ dân tộc gắn liền với phát triển hệ thống từ ngữ mới, hiện đại, gắn kết với thế giới hiện đại là nhu cầu chính đáng. Tuy nhiên cũng cần phải tránh xu hướng lai căng, sùng ngoại, lạm dụng tiếng nước ngoài trong giao tiếp cộng đồng. Nếu sử dụng tràn lan tiếng nước ngoài ở dạng nguyên ngữ dày đặc sẽ có nguy cơ làm biến mất những lớp từ ngữ bản địa. Hiện nay, trong sáng tác văn học nghệ thuật, vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt vẫn cần phải đặt lên hàng đầu. Văn chương là nghệ thuật ngôn từ. Nhà văn là nghệ sĩ của ngôn từ, trước hết là ngôn ngữ dân tộc. Bên cạnh việc tiếp nhận tinh hoa ngôn ngữ nước ngoài, nhà văn cần phải coi trọng kế thừa di sản ngôn ngữ dân tộc. Nhìn lại lịch sử văn học Việt Nam ta thấy những danh nhân văn hóa xa xưa như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Đình Chiểu, Tú Xương, Nguyễn Khuyến... đều là những nghệ sĩ của ngôn từ đã nạm ngọc trên những thảm dệt văn bản ngôn ngữ (chữ Hán, chữ Nôm) lấp lánh với thời gian, trên cơ sở tiếp nhận tinh hoa ngôn ngữ dân tộc và nhân loại.
Sức sáng tạo vĩ đại của lao động nghệ thuật nhà văn đã tạo ra ngôn ngữ văn chương. Đây chính là vàng ròng được tinh luyện từ ngôn ngữ nhân dân trong và ngoài nước. Tâm hồn, trí tuệ, cảm xúc, nếp nghĩ, phong tục, tập quán của dân tộc luôn luôn tiềm ẩn, kết tinh bền vững trong tiếng nói, chữ viết và sẽ còn mãi với thời gian. Đó là quy luật của muôn đời trong quá trình gìn giữ bản sắc và phát triển văn hóa, văn học dân tộc.
N.T.T
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen: Những tác phẩm thời trẻ, Mátxcơva, 1986, bản tiếng Nga, tr.587.
(2) Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, Nxb Văn học, Hà Nội, 1974, tr.26.