Không chỉ ở cái góc cà phê của quán “Phố” Việt Trì với kỷ niệm về một thiếu phụ có định danh “Người dạo ấy”, đã từng dan díu kinh thành giờ nàng về núi lấy chồng để chàng thi sĩ đa tình, hẳn đã từng nặng lòng với nhau lắm lắm, đến khó nguôi ngoai, đến phải những lần đốt đèn đi tìm “lửa”, và người thì đã xa nhưng lửa tình yêu thì vẫn cháy ngập lòng; mà ngọn đèn đi tìm lửa ở đây của Nguyễn Đình Phúc còn ấm áp, còn lấp lánh trong mỗi kỷ niệm, mỗi khắc nhớ trên một không gian, thời gian rộng hơn nhiều so với cái điểm hẹn cà phê của tình yêu kia.
“Giấc mơ Sâm cầm” (Nxb. Hội Nhà văn, 2013) là thế. Nó là những gợi nhớ của một quá vãng đẹp, những đôi cánh mùa thu Tây Hồ trong bâng khuâng heo may, nhưng giờ giấc mơ một lần được tái hiện những đôi cánh Sâm cầm chộn rộn của thi ca ấy cũng không còn nữa. Thật tiếc lắm thay, có lẽ chúng đã mãi xa về kỷ niệm của dĩ vãng: "Từng mong dù chỉ một lần/ một lần “rợp bóng Sâm Cầm” Hồ Tây/ tôi về hỏi gió heo may/gió còn gói cánh nhẹ bay chim về/... Niềm mơ gửi gió lên trời/ Sâm cầm vỗ cành mây vời vợi xa”.
Có lẽ vì thế mà Nguyễn Đình Phúc hay bâng khuâng, dan díu với kỷ niệm. Kỷ niệm trải rộng về không gian và thời gian khác nhau, một cách khá tản mạn. Anh thảng thốt và đau đáu khi viết về gia đình, người thân; anh viết về lãnh tụ; viết về biển đảo và những ngưòi lính kiên trung ở Trường Sa... Nhưng những kỷ niệm của một thời và những chuyến đi, cả những chuyến xuất ngoại vẫn là mảng thơ rì rào cảm xúc, để lại nhiều dấu ấn về sự quan tâm, thao thức của Nguyễn Đình Phúc, kể cả ngôn ngữ, thi pháp và thể loại. Lúc thơ anh sừng sững Mã Pì Lèng và dùng dằng chợ tình Khau Vai, lúc lại dịu dàng suối Yến và phiêu lãng với mùa thu; lúc ở bên dòng Nậm Thi lãng mạn biên giới, lúc lại rừng Xuân Sơn cùng bè bạn; khi tiếng thơ lãng đãng ở Tây Nguyên, khi thẩm thắc tiếng guốc đêm Hà Nội của thời còn trận mạc; khi thì thầm những kỷ niệm tình yêu, khi ấm áp, ân tình với bạn văn tri kỷ.
Người mẹ trong “Giấc mơ Sâm Cầm” xuất hiện không nhiều nhưng cũng đủ cho ta thấm tháp những tảo tần, thương yêu, thấm tháp nụ cười, mà là “bóng” mẹ cười “lệch cả hoàng hôn”: “Ngày nào mẹ cũng ra chăm vườn/ quẩn quanh với tập tàng bầu bi/mẹ bắt con sâu mẹ cơi đất rẽ/ bóng mẹ cười lệch cả hoàng hôn/Bàn chân mẹ làm nên con đường/con đường dẫn con về với mẹ/ đường xa ơi xin đừng nhiều gió nhé/kẻo mẹ ta sấp ngửa cả bước gần” (Xin mẹ y nguyên). Khi viết về cha, không chỉ khắc nhớ bóng hình cha ra trận khi nhà thơ vừa đầy tuổi và tám năm không biết mặt cha, mà ở đó bóng dáng mẹ cha để lại trong những đứa con yêu thương không chỉ là máu thịt mà cả ở trong cõi vô thức, cõi cao xanh và thiêng liêng không dễ cảm nhận:
“Con thương mẹ thương cha/ trầu cau héo ngày xanh biền biệt/mẹ thẫn thờ lầm lụi những chiều đông/... Đời cha mẹ cấy vào đời chúng con đâu chỉ là máu thịt đôi khi là những thứ vô hình, niềm thao thức/ như trầu cau quấn quýt tháng năm xa”(Cha). Mẹ cha và làng quê, nơi tâm thức thi sĩ vẫn trở về, để tươi mới lại những cảm xúc quê làng, ruột thịt, để nhắc nhớ những tháng năm, mà ở đó có thể làm cho ta lớn lên, cho ta sự giàu có của tâm hồn và đạo làm người. Trong đó có những mùa đông, mùa gió thổi tê buốt bờ sông, những đứa trẻ phong phanh, những củ khoai lùi chia thơm thảo, làm cho ta: “Thèm trở lại thuở đông trần chân dất/ cá im lìm đáy nước mải ao sâu/ những mùa lá thật thà phơi gan ruột/ người ngủ vùi trong rét mà thương nhau” (Viết cho mùa đông).
Ta gặp những ký ức thời trai trẻ của chàng sinh viên Nguyễn Đình Phúc như vẫn còn nguyên vẹn, như vừa đâu đây thôi: “Hồi hộp từng đêm tiếng guốc xa rồi/lại nhớ vòm sao thức dậy khuya lạnh/tiếng guốc chong đèn nỗi nhớ/ những xa vắng chờ nhau thời trận mạc/ lẫn trong khói bom gập ghềnh tiếng guốc/gõ nhịp ước mơ ngày thanh bình" (Tiếng guốc đêm Hà Nội). Tiếng guốc gợi thức, nhớ thương và xúc động của những thập niên mà những ai sống ở Hà Nội làm sao quên được những tiếng guốc đêm, tiếng rao đêm, tiếng leng leng xe điện... Nó là âm thanh phố đặc trưng của Hà Nội, và hơn thế, là âm vọng của tình cảm, của những ngày thương nhớ, đeo đẳng cùng năm tháng của không ít con người và số phận. Nguyễn Đình Phúc còn có nhiều kỷ niệm như thế, ở những ngữ cảnh khác. Có lúc anh ví vợ chồng như hai đầu của sợi dây, nối hai nửa cuộc đời, gồng sức qua ngày tháng và “đêm đêm co lại nhựa rễ tìm nhau", tự nhủ lòng nhau: ‘‘Xin nhớ giữ cân bằng bền chắc/ đừng nhão đừng căng/sợi dày mau đứt...”. Cái sự sợi dây đêm đêm co lại nhựa rễ tìm nhau là câu thơ thú vị và mới khi được ví với tình cảm vợ chồng. Biểu tượng sợi dây như sợi nối của tình chồng vợ, tình yêu, thêm một lần nữa được nhà thơ sử dụng trong Ngậm ngùi Khau Vai: “Cứ mỗi năm, họ như haị sợi dây thừng đứt/ mang xuống Khau Vai chắp lại một lần/ thông mã vĩ nghiêng xuống/ nở xanh vòm chứng nhân/che chỗ nối xoắn xuýt”. Người đàn ông và người tình của mình từ nhiều chục năm trước, trong một cuộc chia ly do lực cản gia đình, trở thành huyền thoại, thành sự tích của chợ tình Khau Vai, người đàn ông ấy giờ vẫn một mình đến phiên chợ một năm chỉ họp đúng một ngày mà tìm bóng hình xưa, rồi sau đó: "Rồi khật khưỡng/ như đoạn dây thừng cao nguyên/ dùng dằng nín đứt”. Phải "nín” được cơn đứt mới có thể trở lại truyền thuyết của chính mình. Đấy cũng là triết lý nhân sinh của nghĩa tình, của những tâm hồn lãng mạn.
Nguyễn Đình Phúc có nhiều bài thơ không chỉ nội hàm sự lãng mạn mà cả ở thi pháp tự sự trữ tình, lãng mạn và đa tình như thế. Anh định hình trên nền thơ trữ tình truyền thống. Tôi cảm thấy anh đã ở độ chín của cảm xúc và thi pháp của mình. Nhưng trong cái tạng thơ mà vẫn có nhiều bài thơ câu thúc bởi vần điệu quen tai, anh vẫn tìm được những thi ảnh, những câu thơ mới, cấu trúc thơ hiện đại: “Mã Pì Lèng/ chắt từng giọt vú đá tóp teo/tơ tướp gió nơi đây từng ngọn cỏ/quay lại cổng Trời tôi đếm gió/ gió thanh la trên khuông đá bạt ngàn" (Chầm chậm mang về). Hay ở giọng hót của họa mi: “Tiếng hót hư vô/ thánh thót/ vót nhọn/ gió trời/ vi ví/ ban mai/ Không giống một tuyên ngôn/ muôn loài ngước nhìn lên/ thèm một lần chót vót”. Nhưng có lẽ, một trong những mảng thơ có độ nhuyễn, gợi và khá ổn định là lục bát: "Khúc quanh mắc nợ bóng dài/ hoàng hôn mắc nợ ban mai ánh nhìn/ lời buồn mắc nợ con tim/ dấu chân mắc nợ lặng im...! mà già”(Nợ). Ở một bài lục bát khác, anh lại có cách ( "chiếu tướng" về mắt thế này: "Mắt em sũng ướt khoảng trời/ Anh về chết đuối ở nơi không chồng/ Mắt em vọng tiếng chuông đồng/Anh buông neo phía bờ sông gọi đò” (Mắt...). Hay, một cách nói kiểu khác, có vẻ nhập nhằng, dan díu bâng quơ theo kiểu Nguyễn Đình Phúc: "Anh ngồi với cái rỗng không/ dỡ ra đan lại lọt lòng hoang vu”.
Cái mà tôi thấy tiếc ở tập thơ này là tổ chức tập như trên đã nói, cấu trúc “Giấc mơ Sâm Cầm”, kể cả vấn đề và đề tài mà nhà thơ quan tâm còn tản mạn, chưa liên kết thành cơ thể vạm vỡ. Tất nhiên, những bài thơ hay vẫn có vị trí của nó. Tôi rất hy vọng, Nguyễn Đình Phúc tạo được giọng họa mi mà anh mơ ước, “thánh thót, hư vô, vót nhọn gió trời... Mà ở đó "những câu thơ bắc giàn đêm nhân thế", tức sự thầm lặng, hoang vắng và cả trong những nỗi buồn, khí thơ và tâm thơ Nguyễn Đình Phúc vẫn dung dị, lạ lùng và kiên định: “Từng lá trầu như con chữ ngoi xanh". Mà ở đó, anh vẫn chưa thôi nhiệt huyết của người đốt đèn đi tìm lửa cho riêng mình.
T.Q.Q