Gia tài thơ Tố Hữu viết về Bác hơn 60 năm, ngoài gần 30 bài gián tiếp, chỉ có 5 bài viết trực tiếp có tính “cắm mốc”: Hồ Chí Minh - 1945, Sáng tháng 5 - 1951, Cánh chim không mỏi - 1960, Bác ơi! - 1969, Theo chân Bác - 1970. Nếu coi những vần thơ viết về Bác mấy chục năm trước của Tố Hữu như những con suối, dòng sông chảy ra biển cả thì Trường ca “Theo chân Bác” chính là biển cả - nơi hội tụ của những con suối, dòng sông ấy. Ta có cảm giác trường ca này như tác phẩm cuối cùng Tố Hữu viết về Bác, vì dường như ông đã nói hết thảy!? Những năm 1990, khi nhà thơ Bế Kiến Quốc phỏng vấn Tố Hữu: Sau trường ca này, ông có còn sáng tác về Bác nữa không? Nhà thơ trả lời: “Gan ruột đã rút vào “Theo chân Bác”, khó viết được như thế nữa? Nhưng tôi sẽ viết khác... đang viết” - giờ ông đã “đi xa”!
Được biết, Tố Hữu viết Trường ca “Theo chân Bác” chỉ trong khoảng 20 ngày, khi ông đang điều dưỡng bệnh ở Liên Xô trước đây. Phải viết trong bí mật, vì tôn trọng nội quy của bệnh viện. Song điều bất ngờ, ngạc nhiên hơn là, mới sau 5 tháng Bác qua đời (9/1969 - 1/1970), một bản trường ca dài gần 500 câu thơ thất ngôn đã ra đời, có thể sánh với tầm cỡ bản trường ca viết về Lê-nin của nhà thơ Mai-a-cốp-xki: Vơ-la-di-mia I-lích-Lê Nin. Song có lẽ không lạ, bởi suốt mấy chục năm dài, lợi thế hơn các nhà thơ khác Tố Hữu được làm việc bên Bác. Bác trong đời đã thành thực thể thẩm mỹ của hồn thơ ông với tất cả sự thành kính, niềm say mê, cảm xúc dạt dào trong sự sáng tạo nghệ thuật tài năng. Trường ca “Theo chân Bác” ra đời trong quá trình “thai nghén” ấy, hẳn như một tất yếu!
Như tựa đề: “Nhớ lời Di chúc, theo chân Bác”, nhà thơ đã theo chân Bác để làm sống lại trước mắt chúng ta những chặng đường hơn 30 năm Người đã bôn ba, xuôi, ngược với những chuyến đi không ngừng, không nghỉ cho đến khi nhắm mắt, xuôi tay: Đi tìm chân lý khắp bốn biển năm châu, đi đến với Lê-nin, đi về nước xây dựng Đảng và nhen lên ngọn lửa cách mạng; Đi về xuôi giành chính quyền, rồi lại đi kháng chiến; Đi đến với đồng bào, đồng chí, có mặt ở khắp nơi để khuyên bảo, dặn dò... Và “Như thế, Người đi phút cuối cùng” để khắc sâu điều quan trọng, nổi bật nhất ở Bác “Tình thương ơn nghĩa bao la”.
Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Tố Hữu đều thống nhất rằng: Tình thương là điểm nổi bật nhất của đạo đức Bác Hồ.
Bác vẫn sống mãi trong sự nghiệp cách mạng của chúng ta với bản Di chúc thiêng liêng và Bác vẫn ở giữa đời với mọi người. Đó là một mặt nữa của ý đồ nghệ thuật trường ca này. Về thể loại, có lần Tố Hữu đã nói: Ông làm thơ thường thể loại nó đến một cách tự nhiên, muốn chọn cũng không được. Bởi do nội dung của cảm hứng quyết định. Cũng như kết bài thơ, do quy luật nội tại bài thơ quyết định chứ không thể ép được. Có phải vì thế mà ở trường ca này đã xuất hiện thể thơ thất ngôn rất phù hợp với nội dung trang nghiêm mà cổ kính. Nhưng không khô khan, công thức bởi sự sáng tạo tinh tế, cách biến hóa đa dạng trong lối gieo vần, ngắt nhịp tạo âm hưởng sử thi mà trữ tình, truyền cảm, hấp dẫn. Ý đồ nghệ thuật ấy được thể hiện qua cấu trúc trường ca với 116 khổ thơ (chưa kể xen vào ba bài thơ của Bác) gần 500 câu thất ngôn tứ tuyệt liên hoàn.
Mạch của trường ca, dựa theo cái sườn lịch sử cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Bác suốt 79 mùa xuân, từ thuở ấu thơ sinh ra ở làng Kim Liên đến khi Bác từ biệt cõi đời trên cái nền chủ đề “Tình thương ơn nghĩa bao la” của Bác với cảm xúc chân thành, dạt dào, thắm thiết...
Điều đặc biệt, bằng cách nói của thơ, ở mỗi mốc lịch sử ấy, nhà thơ đã chọn những điểm nổi bật, sâu sắc nhất để làm sáng lên trí tuệ anh minh, phẩm chất đạo đức cách mạng, công lao trời bể và những vẻ đẹp phong cách sống của Bác, qua đó càng thấy “Bác vĩ đại mà chẳng làm ai kinh ngạc” (Chế Lan Viên).
Ví như: Khi tái hiện chặng đường 30 năm đi tìm đường cứu nước của Bác, từ 1911 đến năm 1941, Người ra đi từ bến Nhà Rồng với hai bàn tay trắng, tác giả điểm lại một số sự kiện nổi bật nhất: “Lênh đênh bốn biển một con tàu”. Cuộc đời sóng gió: “Một hòn gạch nóng nuôi tâm huyết”. Nhắc đến sự nghiệp Cách mạng tháng Mười Nga, là việc Bác tìm gặp Lê-nin “Người thầy, người Cha” với chủ nghĩa Mác - Lê-nin mở đường cho quyết định: “Về phương Đông, ta về phương Đông” làm cách mạng cứu nước, cứu dân của Người.
Ngày Bác trở về nước sau 30 năm bôn ba tìm ra con đường cứu nước, “Ôi sáng xuân nay, xuân 41”, tác giả khắc sâu hình ảnh cảm động, Bác hôn lên hòn đất nâu quê hương và khóc thương sau bao năm xa cách Tổ quốc: “Nhớ thương, hòn đất ấm hơi Người”. Và hang Pác-Bó, “Nơi Bác về, nguồn nước mới sinh”, nơi cuộc sống bí mật gian khổ, nhưng “Cuộc đời cách mạng thật là sang” như thơ Bác tự vịnh là một bằng chứng, Tố Hữu đã đưa vào trường ca. Ngày Bác đọc Tuyên ngôn Độc lập tại vườn hoa Ba Đình - Hà Nội khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa với câu hỏi bất hủ: “Bác đọc Tuyên ngôn... rồi chợt hỏi/ Đồng bào nghe tôi nói rõ không?”, thật thân tình, ấm áp: “Rất đơn sơ mà ấm bao lòng”... Đặt trường ca trong cái nhìn tổng thể về thơ Tố Hữu viết về Bác, ta còn thấy có những hình ảnh thể hiện sự vĩ đại của Bác đã thành “mô-típ”, nhưng tác giả không tự lặp lại mình một cách công thức, sáo mòn mà luôn giống Bác.
Ở bài viết này, chúng tôi xin phân tích về hình ảnh Cái nhà sàn của Bác. Lần đầu tiên, đó là cái nhà sàn nơi chiến khu Việt Bắc thời kháng chiến, ngày nhà thơ lần đầu tiên được gặp Bác, khi đến thăm Bác, nhân ngày 19 tháng 5 sinh nhật của Người: “Bác ngồi Bác viết nhà sàn đơn sơ”. Câu thơ tả thực, giản dị như vốn có. Nhưng đến bản trường ca có tính chất tổng kết này, cái nhà sàn đơn sơ tả thực ấy lại được huyền thoại hóa như cuộc đời của Bác vậy. Tại hội thảo quốc tế về Bác, tháng 3-1990 ở Hà Nội, có đại biểu nói: “Người trở nên huyền thoại ngay khi Người đang sống”. “Nơi Bác ở: sàn mây vách gió/ Sáng nghe chim rừng gáy bên nhà/ Đêm trăng một ngọn đèn khêu tỏ/ Tiếng suối trong như tiếng hát xa”.
Và cái nhà sàn của Bác ở thủ đô - Chủ tịch phủ: “Nhà gác đơn sơ một góc vườn/ Gỗ thường mộc mạc, chẳng mùi sơn/ Giường mây, chiếu cói, đơn chăn gối/ Tủ nhỏ vừa treo mấy áo sờn”.
Cái nhà sàn giờ được thay bằng “nhà gác”. Có lẽ là cách nói cho có vẻ cao sang với một vị Chủ tịch nước. Song điều sâu xa, xúc động là cái nhà sàn ấy gắn với đức tính cần kiệm, giản dị, khiêm tốn và sự hy sinh đến quên mình của Bác, khiến các vị khách quốc tế và nhân dân mỗi lần đến thăm viếng không thể cầm được nước mắt.
Với ý đồ nghệ thuật - Bác như vẫn còn giữa thế gian, trong sự nghiệp của dân tộc và “Bác vĩ đại, chẳng làm ai kinh ngạc”, nhìn từ góc độ Người là bậc khai sáng, đi đầu, mũi nhọn, Tố Hữu cũng luôn có những hình ảnh tượng trưng sáng tạo, hàm súc, sâu xa, nhưng không tự lặp lại mình mà luôn giống Bác.
Nếu trước khi Bác qua đời, nhà thơ đã so sánh Bác là “Mặt trời”, là “Ngọn hải đăng”, là “Hồn biển lớn”... thì ở trường ca này, ông lại nghĩ về sự vĩ đại của Bác bằng những hình ảnh biểu tượng mới mẻ: “Mắt vẫn tươi như suối đầu nguồn”, “Thôi đập rồi chăng? một trái tim” “Đỏ như sao hỏa, sáng sao kim!”, “Ngôi sao ấy lặn, hóa bình minh”, “Như đỉnh non cao tự giấu mình”, “Trong rừng xanh lá, ghét hư vinh”, “Ta vào thăm Bác gặp Lê-nin” v.v...
Trường ca “Theo chân Bác”, có thể nói là sự “tập đại thành” của hơn 60 năm thơ Tố Hữu nhận thức và biểu hiện về Bác. Đôi điều nêu trên của chúng tôi mới chỉ nói được phần nào giá trị sâu sắc của bản trường ca “Theo chân Bác” ở một số bình diện.
Tuy vậy, điều nổi bật, ấn tượng nhất, sau khi tiếp nhận trường ca sử thi này là: “Bác vĩ đại, chẳng làm ai kinh ngạc”. Bác là “Tình thương, ơn nghĩa bao la”: “Bác đã lên đường theo tổ tiên/ Mác - Lê-nin, thế giới người hiền” (Bác ơi!)
Nhưng “Bác đi... Di chúc giục lòng ta”. Bác vẫn “Sống như trời đất của ta”; Bác vẫn ở giữa đời, sống mãi trong sự nghiệp cách mạng của chúng ta! Và “Còn những ai chưa được một lần/ Trong đời gặp Bác! Hãy nhanh chân/ Tiến lên phía trước! Trên cao ấy/ Bác vẫn đưa tay đón lại gần”...
Đó cũng chính là những điều “gan ruột” nghĩ về Bác của một “chiến sĩ - thi sĩ” Tố Hữu gửi lại cho đời qua bản trường ca này!
N.Đ.V