Vẫn âm thầm thắp lửa muôn nơi
Ánh sáng từ tuệ mẫn trái tim Người
Bác đã mang theo lên Việt Bắc
Hồn núi sông, giành độc lập muôn đời
Con trầm tư bên xóm rừng Cổ Tiết
Cây Thị tỏa cành, nhung nhớ, xanh đưa
Đây ngày xưa, chỗ Bác thường thể dục
Hương vấn vương lưu giữ tình thơ
Ánh thời gian dát vàng dòng thời cuộc
Khi Hà Nội khói lửa ngút trời
Bầy quỷ xâm lăng thực dân Pháp
Xua quân bủa vây lùng sục
Giăng chốt ở Trung Hà, bến Hạc...
Chặn nơi nào Bác qua
Máy bay, ca nô, tàu chiến
Đạn lửa rát bờ
Bầm dập dòng Lô
Chúng mọi cách tìm diệt
Đầu não Cách mạng ta
Dấu chân nào Bác vượt?
Bến bờ nào chờ đưa Bác sang sông
Con đò nào chở Trung ương và Bác
Bao mái nhà dân canh đêm thức
Kẻ săn tìm đâu biết Bác chẳng xa
Đã nghe giông bão rung mành
Đã nghe đạn địch gãy cành trời khuya
Dây đàn bừn bựt đường tơ
Con chim mất tổ, cá vừa chết sông
Đã nghe “Sông cạn đá mòn...” (*)
“Quyết giành độc lập” nước non khải hoàn
Tháng ba năm 1947 có thể nào quên
Gian khổ hiểm nguy đường Bác lên Việt Bắc
Bên xóm rừng Cổ Tiết
Cây Thị thức cùng Người
Sớm vươn tay luyện sức
Đèn dầu đêm in bóng
Ngón tay gõ vào thanh vắng
Máy chữ từng hồi rung giấy trắng
Gió xao động từng nước cờ thiên biến
Lúc vây chặn, lúc giao hòa hiệu ứng
Đắc địa phép linh công
Ngọn cỏ non rưng rưng sự sống
Cảnh vật hòa dáng hình cao lộng
Tiếng Cội nguồn... thao thức non sông
Vận nước lửa sôi, bàn tay Người xoay chuyển
Lịch sử ngàn năm trong đêm rừng Cổ Tiết
Hội tụ nơi Người lửa binh pháp cha ông
Người quả quyết: Không kẻ thù nào thắng được
Khi cả Dân tộc cùng vùng lên
Đây cuộc chiến tranh chính nghĩa thánh thần
Cả nước dốc lòng “Trường kỳ kháng chiến”
Mỗi người dân kiên cường chiến sỹ
Mỗi bờ tre, xóm làng... thành lũy
Đoàn kết một lòng, thắng lợi ắt về ta
Bác từng hỏi Đại tướng Võ Nguyên Giáp:
Hà Nội giữ được bao lâu
Nông thôn đồng bằng giữ được bao lâu
Miền Nam anh dũng thế nào
Làm sao lên Chiến khu cho chủ động... (*)
Chủ động là diệu kì sách lược
Là ánh sáng của niềm tin
Xoay thời cuộc nắm thời cơ chuẩn xác
Sát tình hình lựa an nguy điều cuộc
Không xa chiến trường
Được gần dân nhất
Bưng tai mắt kẻ thù
Giữ an toàn bí mật
Ta đọc trong mắt Người
Sáng đường đi, thế nước
Ta đọc trong tim Người
Lòng dân là tiên quyết
Mây gió cũng theo về
Đất trời xanh độc lập
Địch trong ngoài chống phá
Vùng tạm chiếm chúng đàn áp, lừa phỉnh, lôi kéo
Gây mất lòng tin đoàn kết Giáo, Lương
Bao diễn biến khó lường
Trầm tĩnh đẩy lùi bão giông
Gánh nặng trước giang sơn
Người đoán định, lo vẹn toàn cơ lược
Đêm đèn dầu Cổ Tiết
Thư gửi giám mục Lê Hữu Từ lời cương trực ái nhân:
Hiến pháp đã ghi tự do bình đẳng tôn giáo, trải lòng
Vì dân nước mong đồng lòng góp sức
Ôi lá thư xuyên đêm qua đồn bốt địch
Trong gian nguy giữa công việc bộn bề
Khẩn thiết “Phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào thực dân Pháp” (*)
Từng trang giấy nóng dồn bàn tay Bác
Thư gửi đồng bào hậu phương chưa ráo mực
Lại khẩn trương “Mười vấn đề kháng chiến cần biết toàn dân”
Sắc lệnh lập “Cục Ngoại thương thời chiến”sáng tầm nhìn
Củng cố, giữ an toàn các Ủy ban hành chính
Họp Trung ương bàn kế sách đánh Tây
Thư gửi Quốc hội và nhân dân Pháp vạch trần tội ác giặc phơi bày...
Động viên quân dân dốc lòng vừa kháng chiến vừa kiến quốc
Từng hơi thở mạch máu trái tim Người đồng nhịp
Giữa đêm trời sáng cả ngày mai
Mười lăm ngày Bác dừng chân Cổ Tiết
Mà sức đo nặng gánh đường trường
Mà kim cổ đông tây chưa hề biết
Ôi những ngày bừng thức non sông
Gian lao mà trác tuyệt
Toàn dân đồng lòng, người người góp sức
Cuộc chuyển hóa lòng tin, kháng chiến trường kỳ
Bác ơi
Con về nghe tiếng thì thầm
Lắng trong ơn đức mạch ngầm đất đai
Lời Người non nước dặm dài
Bàn tay chèo lái chông gai chẳng sờn
Đôi bờ hợp sóng sông Hồng
Đỉnh cao Nghĩa Lĩnh, một vầng trăng thiêng
Nước non lửa khói trăm miền
Thế ta chưa vững nhãn tiền tạm lui
Hằng đêm thao thức bên Người
Mái gianh đèn rạng, cơ trời hiện lên
Trường Kỳ Kháng Chiến - đặt tên (*)
Nhất Định Thắng Lợi - vang miền gần xa
Tên Người đặt, nghĩa bao la
Trăng đêm lấp lánh quân ra chiến trường
Người tên mới, đứng trang nghiêm
Âm vang nghe tiếng hịch truyền chuyển mau
Con nghe như có phép màu
Trông lên Việt Bắc, non cao sáng ngời
Cây Thị thành chứng nhân
Mái nhà địa chỉ đỏ
Những cán bộ âm thầm tận tụy
Trải ấm lòng nhân dân
Đất nước tự thuở nào
Mà linh thiêng hồn chữ
Nghe xa miền Miếu cổ...
Dòng Như Nguyệt ảo mờ:
“Nam quốc sơn hà nam đế cư (**)
Tuyệt nhiên định mệnh tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
Lịch sử giao ca Thời đại mới Bác Hồ
“Không gì quý hơn Độc lập - Tự do”
Dòng máu Lạc Hồng, bốn phương trời mải miết
Con đã nhận ra từ những tên Bác đặt
Âm vang điệp khúc áng thơ thần
Tường minh như ánh dương
Mà chân mộc một hiền nhân
Mà thương cùng trời sao cây cỏ
Thắng lợi nhất định phải dành
Nhưng tổn thất hy sinh làm sao cho ít nhất
Và Trường kỳ là thiên tài phương sách
Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng (***)
Làng tôi gần Cổ Tiết
Sững sờ đâu có biết
Lịch sử đêm giao ca
Là những đêm Bác thức
Khơi tâm trí Trường kỳ
Bao đêm Bác không ngủ
Lo việc nước bời bời...
Ai đo được biển trời
Tình yêu nước thương dân nơi Bác
Cây Thị chim về vang hót
Trước cổng Đền dáng trầm tư
Từ khi nào thành cổ thụ
Ô kìa xanh ngắt trời thu
Đền thờ khói hương thơm tỏa
Người về đây khắp mọi miền
Ô kìa có đàn cháu nhỏ
Vui chơi, óng ả lá cành
Cây hẳn nhớ Người ngày trước
Đường lên Việt Bắc nơi này
Ô kìa vẫn còn câu chữ
“Trường Kỳ Kháng Chiến...” đánh Tây
“Đất nước mười lần to đẹp”
Nơi đây hằng vĩnh đức ơn
Ô kìa vẫn cành Thị ấy
Vạm vỡ, dáng hình y nguyên
Như vẫn còn đây bóng Bác
Phấp phới cờ đỏ trời xanh
Ô kìa có ông Tây trắng
Chắp tay cầu bái - lòng thành
Câu thơ lục bát khắc ghi
Lối xưa tỏa sáng đường về năm nao
Dòng sông sóng nước dạt dào
Nghiêng che bóng Thị xanh vào thời gian
Đền thờ ơn đức nghiêm trang
Vầng thiêng bồi tụ, nắng vàng cờ bay
Một lời “Quyết sách” từ đây
Đường lên Việt Bắc rừng vây quân thù
Con đường mở rộng chiến khu
Trường Kỳ Kháng Chiến... như vừa sáng lên.
N.Đ.P
* Được lấy từ tư liệu và các văn kiện về Bác ở các Khu di tích và các báo Trung
ương, địa phương.
** “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt.
*** Thơ Tố Hữu.