Khi đó, cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước đang diễn ra rất ác liệt, có thể nói là một mất một còn. Phần mở đầu Di chúc Bác khẳng định: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn”; tiếp theo Bác viết một câu ngắn và cũng là một đoạn văn tối giản vẻn vẹn chỉ có 6 chữ: “Đó là một điều chắc chắn”. Điều đó là việc đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, tạo ra niềm tin thiêng liêng, vững chắc cho toàn thể dân tộc ta. Sau đó Người đưa hai ý định, cũng là hai việc cần làm, khi cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Một là: “Tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sĩ anh hùng; thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta”.
Hai là: “Kế theo đó, tôi sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta”.
Những lời này Bác cấu trúc làm phần mở đầu, vừa khẳng định cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta diễn ra là tất thắng, vừa có tác dụng nêu lên hoàn cảnh lịch sử đặc biệt khi Người viết bản Di chúc này.
Phần thứ hai, mở đầu Bác nêu lý do viết Di chúc. Khi nói đến tuổi thọ của mình, Người khéo léo nhắc lại một câu thơ của Đỗ Phủ - nhà thơ ở Trung Quốc đời nhà Đường: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy” nghĩa là “Người thọ 70 xưa nay hiếm”. Đoạn văn sau người trình bày cụ thể: “Năm nay tôi vừa 79 tuổi đã là lớp người “xưa nay hiếm”, nhưng tinh thần, đầu óc vẫn sáng suốt, tuy sức khỏe có kém so với vài năm trước đây”. Bác viết tiếp một câu nêu nên tính quy luật giữa tuổi tác và sức khỏe của con người: “Khi người ta đã ngoài 70 xuân thì tuổi tác càng cao, sức khỏe càng thấp”, là sự giảm sút tự nhiên, nên: “Điều đó cũng không có gì lạ”.
Hai đoạn văn tiếp theo, Bác dùng phép nói tránh, nói giảm một cách tinh tế. Đoạn văn chuyển tiếp lẽ thông thường người đời sẽ viết: Nhưng ai mà đoán biết trước được tôi còn sống được bao lâu nữa. Người đã nói tránh, dùng điệp từ và lặp cấu trúc để tránh đi sự liên tưởng của người đọc, người nghe về sự sống - chết của mình: “Nhưng ai mà đoán biết được tôi còn phục vụ cách mạng, phục vụ Tổ quốc, phục vụ cho nhân dân được bao lâu nữa?” Người dùng dấu hỏi để mọi người cùng suy nghĩ. Sau đó dùng cách nói giảm tinh tế để tránh gây sự xúc động, nỗi đau thương bất thường cho mọi người. Bác viết: “Vì vậy, tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp các cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột”.
Ngày nay, mọi người đọc những dòng này cảm thấy Bác như vẫn còn sống. Chỉ như đi xa, nhẹ cánh bay trong cuộc trường sinh vĩnh viễn của dân tộc.
“Trước hết nói về Đảng” - Bác dùng một chữ Đảng. Mọi người đều hiểu đó là Đảng Lao động Việt Nam (ngày nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Tư tưởng nhất nguyên (một đảng), có từ trong bản Di chúc này.
Đảng ta là một tổ chức chính trị của giai cấp tiên phong nên cần phải coi trọng nhân tố đoàn kết: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ, phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay. Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”.
Như vậy, Người nhắc nhở Đảng ta cần phải chú ý đến các nhân tố: đoàn kết, tổ chức, lãnh đạo. Quan trọng nhất là yếu tố đoàn kết. Người khẳng định: “Đoàn kết là truyền thống quý báu của Đảng và nhân dân ta”. Để Đảng ta lớn mạnh và phát triển, Người căn dặn: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng”.
Người dùng so sánh hình ảnh gần gũi, thiết thực: “Như giữ gìn con ngươi của mình”. Người chỉ bảo: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”. Đây là vấn đề có tính chất nguyên tắc: tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; Người còn dạy phải chú ý đến yếu tố tình cảm nên “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Người dặn dò mỗi đảng viên và các cán bộ phải có ý thức tu dưỡng tư tưởng, làm tốt nhiệm vụ của mình: “Phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính chí công vô tư, phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Thực hiện lời dạy của Bác, mỗi đảng viên và cán bộ Đảng cần giữ gìn sự đoàn kết, cố gắng học tập tu dưỡng đạo đức cách mạng, quên mình phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ, xây dựng Đảng ta thành một Đảng vững mạnh làm tròn sứ mệnh thiêng liêng mà Đảng ta đã đề ra: Xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam.
Trong bản Di chúc này, nói về Đảng là nội dung Bác dành nhiều lời nhất. Đó là những tư tưởng xây dựng Đảng của Người còn nguyên giá trị cho hôm nay và mai sau.
Với “Đoàn viên và thanh niên” - là lực lượng hậu bị của Đảng, là tương lai của dân tộc. Người khen ngợi: “Đoàn viên thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái tham gia, có chí tiến thủ”. Người yêu cầu Đảng ta “Cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên.
Sau đó Bác viết một câu và cũng là đoạn văn độc lập có ý nghĩa kết luận một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”.
Trong hoàn cảnh đất nước ta và trong thực tiễn cách mạng của nước ta và thế giới, giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau có ý nghĩa chiến lược gắn với sự sống còn của Đảng cách mạng, của chế độ xã hội, của quốc gia, dân tộc và của mỗi gia đình. Lời Bác dạy chúng ta luôn ghi nhớ và thực hiện thật tốt.
Với “Nhân dân lao động” - Bác có sự cảm thông sâu sắc: “Ở miền xuôi cũng như ở miền núi đã bao đời chịu đựng gian khổ”, nguyên nhân là: “Bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột lại kinh qua nhiều năm chiến tranh”. Người ca ngợi nhân dân lao động ta: “Rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng nhân dân ta luôn đi theo Đảng rất trung thành với Đảng”. Bác giao nhiệm vụ: “Đảng ta cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.
Từ trong chiến tranh gian khổ, thực hiện Di chúc của Người, Đảng ta, Nhà nước ta đã đề ra những kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội dài hạn, ngắn hạn cho cả nước và từng vùng, từng miền. Nhìn lại mấy chục năm qua, chúng ta đã có những thành tựu đáng kể: Tăng trưởng kinh tế ở mức độ cao, đời sống nhân dân được nâng lên, bộ mặt đất nước đổi thay.
Ngày nay thực hiện Di chúc của Bác Đảng ta, Nhà nước ta luôn chú ý làm tốt hai mặt: “có kế hoạch thật tốt” và “không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.
Về “Cuộc kháng chiến chống Mỹ” - Người nhận định: “Có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hi sinh nhiều của nhiều người”. Đó là nhận định rất đúng với thực tiễn chiến tranh, thực tiễn chiến trường Việt Nam đánh Mỹ. Do đó Người nêu lên quyết tâm: “Dù sao chúng ta cũng phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn”. Người còn nói về viễn cảnh sau khi chúng ta thắng Mỹ, bằng hai dòng thơ tạo nên niềm tin vào tương lai tươi sáng:
“Còn non còn nước còn người
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay”
Người tin tưởng sắc son vào sự toàn thắng: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”.
Niềm tin của Bác thành niềm tin của toàn dân ta, tạo nên sức mạnh vật chất đạp bằng gian khó, lập nên những chiến công hiển hách. Gần 6 năm sau niềm tin vào thắng lợi của Người đã thành hiện thực. Đúng như lời dạy của Người “Nước ta đã có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đánh thắng hai đế quốc to - là Pháp và Mỹ và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc.
“Về phong trào cộng sản thế giới“ - là một chiến sĩ cộng sản quốc tế lỗi lạc nên người có nỗi niềm riêng: “Tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em”.
Người mong muốn: “Đảng ta sẽ ra sức hoạt động góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng Chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”.
Người tin tưởng: “Các đảng anh em, các nước anh em nhất định sẽ đoàn kết lại”.
Đọc lại những dòng Di chúc này, chúng ta thấy Người như đã dự cảm về sự đổ vỡ và thoái trào của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Người gửi niềm tin vào sự hoạt động tích cực của Đảng ta và hy vọng các đảng anh em, các nước anh em sẽ có ngày đoàn kết lại.
Ngày nay, sự sụp đổ của Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, trong sự thoái trào của phong trào cách mạng thế giới, Đảng ta vẫn vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin quan hệ tốt đẹp với các nước ủng hộ nhiệt tình các tổ chức cách mạng và các Đảng cộng sản, giúp đỡ họ khôi phục lại uy tín, danh dự quyền lãnh đạo trong thời kỳ khủng hoảng, thoái trào và đã quan hệ hữu nghị với tất cả các nước.
“Về việc riêng” - Người tách ra làm phần thứ ba, ghi lại bằng 79 chữ có sự ngẫu nhiên trùng khớp với số tuổi của Người. Bác nói rằng: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”. Như vậy Người đã hiến dâng cả cuộc đời cho Tổ quốc cho nhân dân và cho sự nghiệp cách mạng. Sau đó Người dùng cách nói giảm thông dụng nhất để nói về mình: “Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Cũng bằng cách nói giảm thông dụng, Người cặn dặn chúng ta: “Sau khi tôi đã qua đời chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”.
Về việc riêng, Người cũng cho chúng ta bài học lớn về tư tưởng, đạo đức của người chiến sĩ cách mạng.
Phần cuối bản Di chúc, Người ghi lại những lời cuối cùng bằng ba đoạn văn:
Thứ nhất: “Tôi để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng”.
Đó là tình cảm thiêng liêng của Người thầy cách mạng, người cha già dân tộc để lại cho chúng ta và muôn đời sau.
Thứ hai: “Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn, và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế”.
Đó là tình cảm yêu thương của người chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, danh nhân văn hóa thế giới dành cho nhân dân lao động, đồng chí, bạn bè và thế hệ tương lai khắp năm châu.
Thứ ba: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Điều cuối cùng mong muốn của Người chính là mục tiêu chung để chúng ta phấn đấu thực hiện.
Toàn bộ Di chúc của Bác Hồ, kể cả lời ghi Quốc hiệu, ngày, tháng, năm, địa điểm tên người viết gồm 1.132 chữ rất ngắn gọn, giản dị, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ và rất khỏe mạnh, trẻ trung, hóm hỉnh, bao quát được toàn bộ những vấn đề lớn của Đảng, của dân tộc, của phong trào cộng sản thế giới, kể cả việc riêng, việc tình cảm, điều mong ước cuối cùng. Đó là lời tâm huyết thực sự của Người dành cho chúng ta và muôn đời con cháu, xuất phát từ tư tưởng và tình cảm cao đẹp, nguyện vọng thiết tha lòng mong ước chân thành của một con người vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc và lịch sử nhân loại.
Đảng ta, nhân dân ta tự hào rất tự hào có Bác Hồ vĩ đại. Đọc Di chúc của Người chúng ta thấy tư tưởng, tình cảm của Người soi sáng con đường chúng ta đi, soi sáng tâm hồn ta. Chúng ta nguyện: “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại!” để mãi mãi xứng đáng là con cháu của Người.
Tr.H