Quán Lệ đóng ngay đầu xóm dưới tán một cây trứng cá. Quán bán đủ thứ hầm bà làng nhưng nguồn thu chính có lẽ chỉ nhờ hai món “hàng độc” là dưa giá và cà nén. Mỗi ngày Lệ làm hàng chục kí lô dưa giá, cà nén cho các nhà hàng khách sạn. Dưa giá là loại dưa đu đủ bào sợi muối chua kèm thêm giá sống và hành lá, giờ cũng ít người ăn. Còn cà nén lâu lâu tôi cũng mua nhưng ăn không hẳn vì thích.
Cả xóm Gò, có lẽ cả vùng này không ai biết ăn cà muối nén. Cà, ở đây người ta thường cắt đôi cắt ba phơi một nắng cùng với dưa leo đu đủ trộn với mắm nêm ớt đường thành món mắm cà cay hít hà, hoặc muối xổi. Chỉ duy nhất quán Lệ có cà nén.

So với dưa giá, có lẽ cà nén có “bề dày lịch sử” lâu đời hơn nhiều. Trong truyện dân gian thấy cà nén là món ăn chủ lực trên mâm cơm người Việt xưa. Mẹ tôi nói thời xưa trong làng nhà nào cũng nén ít nhất một vại cà, ở đây gọi là thạp, đủ ăn quanh năm. Nghe kể các nhà địa chủ xưa nhiều tá điền làm thuê còn nén tới mấy vại lớn. Buổi trưa đi làm về chỉ kịp nấu nồi cơm, luộc một rổ rau, ra vại lấy mấy quả cà là xong bữa. Nếu kiếm được cua cá cũng phải để bữa chiều về thư thả hơn mới nấu được. Cà nén thời đó thịnh tới mức có hẳn một loại vại sành cỡ một trăm lít chuyên để muối cà và một thớt đá chuyên dụng hình vành khăn được chế tác riêng để nén cà. Vành khăn đá chặn vừa lọt miệng vại trên một tấm vỉ đan bằng tre. Sau đó tấm vỉ tre sẽ bị đục thủng một lỗ ngay chính giữa vành khăn để mỗi bữa lấy cà ăn người ta không phải nhấc nguyên vành đá nén ra. Hồi còn bé tí ở quê tôi đã tận mắt nhìn thấy thớt đá hình vành khăn này. Về sau nó bị bỏ phế đầu hồi nhà cùng chiếc cối đá lớn có thời từng làm cối giã hay lật úp để đập lúa.
Trong hình dung của tôi, thời cà nén thịnh nhất phải thuộc về những thế kỉ xa xưa, thời ra đời những sự tích con chim “bát cát quả cà”, tích chèo Lưu Bình - Dương Lễ với câu “cơm mốc với cà meo”. Hay câu ca “Cơm hẩm ăn với cà kho, chồng xấu vợ xấu những lo mà rầu”. Cà meo, tôi được biết đó là cà nén lấy ra đã rửa nước, ăn không hết để lâu đến mức thâm đen lên meo, thường bị bỏ đi. Cà kho cũng là cà muối nén lấy ra ăn không hết người ta đem cắt miếng kho với chút mỡ cho mềm ra. Tuy có vị béo của mỡ dễ ăn hơn nhưng vẫn là món ăn khắc khổ không thể ăn tham được. Thời nay không ai còn biết món cà kho đó nữa nên câu ca bị nhiều người hiểu nhầm chép thành “cơm hẩm ăn với cá kho”.
Khác với dưa giá không để lâu được phải bán trong ngày, cà nén có thể để cả năm, nói kiểu Lệ là “để thiên thu sợ gì”. Bất cứ lúc nào nhà hàng alo là có. Hóa ra thực khách các nhà hàng khách sạn lớn cũng có người kì quặc, phải nói là khó hiểu. Hoặc họ là những người đa cảm, dễ bị dưa cà làm lay động phần gốc rễ nông dân trong lòng.
Lâu lâu ra quán gặp đúng lúc Lệ lấy cà bỏ mối tôi hay nhân tiện mua vài ba trái. Mỗi lần lấy cà Lệ phải rinh nguyên cục đá ra, vớt cà cho vào từng bịch nilon cân kí lô. Những trái cà bị nén nhăn nhúm dẹp lép mặn chằng nhưng rất giòn. Vào mùa giáp tết Lệ còn xin rễ kiệu bỏ vào nén chung với cà “cho thơm”. Tôi không biết đây có phải một cách “làm mới” cà nén giống như cho thêm hải sản vào bánh căn, thêm trứng cút vào bánh canh cá truyền thống hay không.
Chiều tối nay nấu cơm xong tự nhiên thấy buồn buồn. Tôi nảy ý hay ra nói Lệ bán cho mấy ngàn cà nén về ăn với nước rau luộc, thử tưởng tượng mình đang ở vào những thế kỉ trước, kỉ cà nén.
Nhưng ra tới nơi mới chưng hửng thấy quán vắng hiu. Hàng đã dọn về hết chỉ còn trơ sạp gỗ tạp trống trơ không cần cửa nẻo. Lệ đang đứng dựa cột quán thông báo: “Nghỉ bán rồi”. Nói xong Lệ đưa trái xoài sống lên miệng cắn nhai cái rột. Tôi nhăn mặt tưởng tượng vị chua đến ghê răng. Sao nay nghỉ sớm vậy, tôi nghĩ nhưng không hỏi. Định quay về thì đúng lúc một chiếc xe đạp bất thần phóng tới. Trên xe một bà mẹ trẻ chở đứa con khoảng sáu, bảy tuổi hớt hơ hớt hải hỏi hát cải lương ở đâu vậy? Hát cải lương ở đâu vậy?
- Hát PĐ, không phải cải lương - Lệ đáp.
- Ờ hát PĐ, quên. Quẹo đây hay trên kia?
- Quẹo đây cũng được, trên kia cũng được. Cứ thấy chỗ nào sân khấu loa đèn sáng trưng là biết à.
Chiếc xe đạp phăm phăm phóng đi.
- Hát PĐ... là hát gì ta? - Tôi ngơ ngẩn hỏi.
- Là tụi PĐ nó hát, chứ chưa coi hả? Nó hát nửa tháng nay rồi mà chưa coi? Coi không tui dẫn đi?
Đi. Tôi gật. Buổi tối trong xóm chẳng có gì vui. Tôi cũng đang không được vui. Căn nhà tôi mua đã một năm rồi vẫn chưa làm được sổ vì chiều ngang “mặt tiền” chỉ có 4m, mà quy định nhà đất ở nông thôn phải chiều ngang 5m trở lên mới được tách sổ. Khi mua tôi đã không biết có quy định này.
Lệ giải thích lí do vì sao tối nay quán đóng cửa sớm. Vì đêm nay là đêm hát cuối cùng của đoàn hát PĐ, người trong xóm rủ nhau đi coi hết rồi.
- Tui không thích coi hát PĐ. Tui thích cải lương thôi. Mà cải lương cũng chỉ thích nhứt một bài, nghe được có một lần giờ tìm không ra - Lệ nói.
Tôi hỏi bài cải lương tên gì, ai ca?
- Đã nói không biết. Nếu biết bài gì đã kiếm ra băng đĩa rồi. Bữa đó có đoàn cải lương về cũng hát chỗ này. Ngày nào mấy ổng cũng ca cho nghe đã đời để bán vé rồi mới diễn tuồng. Tui thích bài đó, thích câu...
Từ căn nhà bên đường ông ổng vọng ra tiếng hát karaoke át mất tiếng Lệ. Chuyện karaoke gào thét ồn ào đến nửa đêm đã quá quen. Người Xóm Gò giỏi chịu đựng. Người ta nói cùng lắm như cà muối nén trong thạp, tuy bị dẹp lép móp méo chút nhưng toàn mạng. Bức xúc gây với đám đó chỉ thiệt thân.
- Người ta nói cái gì cũng có hai mặt nha. Karaoke không chỉ có gây phiền, có khi nó còn làm phước nữa nha.
Lệ nói và kể có bà già kia bị tai biến nằm liệt giường. Bà muốn được chết nhưng con cháu không cho. Bà ngậm chặt miệng không chịu ăn thì nó thọc dây bơm qua lỗ mũi, bả đau quá muốn dứt ra thì bị nó la bả làm tốn hết mấy chục ngàn mua dây. Ngày đêm bà già cầu xin Bụt rước bà đi, xin Trời cho được chết, mà mấy tháng trời không chết. Về sau bả không nói được nữa chỉ còn mỗi cặp mắt còn chảy nước mắt khóc được mỗi khi có ai tới thăm. May sao bữa đó nhà hàng xóm chung tường sát bên sắm dàn karaoke. Nó hát có hai ngày thôi là bà già chết tốt. Mô Bụt. Thoát nợ.
Tôi theo Lệ quẹo xuống xóm Đồng Lớn. Con đường đất nhỏ, bước trầy trật vì rải gạch vỡ ngói vụn. Một bên ruộng nước, một bên xóm. Tôi thấy lạ, sao toàn ruộng hoang không vậy? Lệ giải đáp “Ruộng đây thu hồi hết rồi, người ta chưa đổ đất thôi”. Và Lệ bắt luôn vào chuyện người trong xóm chơi trò ú tim với dự án khu đô thị mới Hoàng Thôn. Lệ hào hứng nhấn đi nhấn lại đoạn mọi người hối hả xuống mạ, rồi vừa nhìn lúa ra bông, trông lúa chín, vừa nhấp nhổm nghe ngóng hồi hộp, như một cuộc chạy đua hứng thú.
Chuyện này tôi nghe rồi. Cũng tình cờ nghe ở quán Lệ trưa hôm qua. Lúc đó mọi người đang sôi nổi nói đến đoạn ông Năm bà Sáu nào đó ngày nào cũng nhấp nhổm ra dòm lúa, thấy sắp lên đòng mừng ơi mừng... Nghe thêm lúc nữa tôi hiểu đại để khu ruộng phía tây sát trục đường liên thôn đã thu hồi xong, đã đền bù lâu rồi, nhưng mấy năm liền dự án bỏ không cho cỏ mọc. Hàng ngày người làng đi qua đi lại nhìn tiếc đất. Sau có mấy người tặc lưỡi chơi liều ra cày cấy. Vụ đó họ thắng lớn. Nhiều người khác thấy vậy lăm le bắt chước. Nhà ông Hai, bà Ba, bà Tư... lần lượt theo nhau ra làm, vừa xuống mạ vừa nghe ngóng hồi hộp. Vụ đầu trót lọt, tiếp vụ hai, vụ ba. Hối hả làm lúa ngắn ngày 3 tháng cho mau được gặt. Thấy những người liều mình ra làm trộm đều thu đậm, hỉ hả, những người chết nhát nhất không dám liều từ đầu cũng sốt ruột xông ra làm, thì thôi rồi, dự án tới lúc ra tay...
Họ nói với nhau và cười chảy nước mắt, kết thúc bằng câu “zui gơ” (vui ghê).
Lúc đó tôi mới biết cánh đồng lúa ven đường hàng ngày tôi đi qua là ruộng đã thu hồi. Tôi lập tức chạy xe ra xem. Đúng thật. Khoảng một phần tư đồng lúa đã bị lấp.
Từng đoàn xe sơn màu lửa đang nối nhau chở đất núi đổ xuống, tung bụi đỏ khắp cánh đồng. Những thân lúa xanh gãy gục giập nát dưới đất đá trước khi bị vùi sâu. Biết là ruộng đã thu hồi cứ làm ráng chịu, nhưng bỏ không bao nhiêu năm còn được, chỉ khoảng tháng rưỡi nữa là có lúa sao không thể nương tay? Tôi đã hỏi một cán bộ dự án khi gặp người này cắp cặp đi ngang. Anh ta nhìn tôi như thiên lôi bất ngờ gặp ngọn heo may chắn đường, bỏ đi không thèm đáp lời. Nhưng được hai bước, có lẽ nhận thấy cần phải khai sáng cho những cái đầu ngớ ngẩn, anh ta dừng lại. “Nói như giỡn. Khi đã lên kế hoạch một ngày cũng không được lùi, nói gì tháng rưỡi. Cứ nghĩ vậy thì không bao giờ làm ăn lớn được”.
Ừ phải. Anh ta nói đúng. Chắc làm ăn lớn phải vậy, cái đầu phải lạnh. Rõ ràng nhờ khu đô thị mới khởi động mà đất xóm Gò có giá. Người trong xóm cũng vui thích vì sắp được ở gần khu đô thị. Họ chấp nhận có chơi có chịu, có ai than câu nào đâu mắc gì tôi buồn vay. Nhưng làm ăn lớn rồi sao nữa? Không phải mấy ông chủ các tập đoàn lớn ăn chơi thỏa thích các món lạ cầu kỳ rồi lại quay về cà nén đó sao. Nghĩ tới cà nén tôi sực nhớ thắc mắc lâu nay chưa có dịp hỏi Lệ. Đó là từ đâu Lệ biết nén cà, sao biết nhà hàng khách sạn nào trên phố cần cà nén mà bỏ mối?
Nhưng Lệ không đáp lời tôi. Nàng đang nói chuyện khác.
- Mấy xóm Đồng Lớn, Đồng Nhỏ trong đây hồi kia là ruộng của nhà tui hết. Ông bà già mua từ hồi mới cưới nhau, một mẫu một cây vàng. Giờ thành đất năm mươi năm, người ta làm nhà ở luôn thành xóm giữa đồng như này.
Lệ vừa nói vừa dẫn tôi đi sâu vào xóm Đồng Nhỏ. Con đường men theo những bờ tre, bờ rào rậm rịt dây leo hoặc cây ô rô. Tôi nhìn thấy bên trong bờ rào những mảnh vườn trũng xâm xấp nước vì mới qua mùa mưa. Vườn trồng chuối, vườn trồng dừa, vườn trồng khoai môn. Có vườn bỏ không. Sau các mảnh vườn mới là những ngôi nhà có ánh đèn. Trong đây im lìm đến mức một tiếng ếch nhái cũng không nghe, chỉ có gió thổi xào xạc ngọn tre tối hù trên đầu. Cỏ dại và lá khô ngập dưới chân bờ tre làm tôi nghĩ tới rắt rít. Nhưng vừa qua khỏi bờ tre gai, quẹo phải thì... Òa! Một sân khấu rộn rã sáng trưng hiện ra bên kia mấy thửa ruộng trống. Gió mạnh đưa tiếng hát tiếng alo tới rồi lại thổi bạt đi lúc gần lúc xa. Thật sự lúc nhìn thấy một sân khấu ngoài trời với phông màn ánh đèn và đám đông cũng làm tôi thấy chộn rộn, bước chân vui hẳn lên. Thì ra không chỉ côn trùng có cánh hay bọn tôm cá biển bị hút vào ánh đèn. Con người mình cũng vậy thôi.
Sân khấu dựng trên một khoảnh ruộng hoang đã lên cỏ. Chúng tôi tới nơi đúng lúc một “ca sĩ” bận đầm đen bó sát, mỏng tang như lưới nhìn rõ cả đồ lót giả nữ bên trong đang lắc mông yểu điệu hát một bài gì đó trên sân khấu. Sau lưng chàng ta, một nhóm năm chàng khác cũng son phấn trang điểm đậm dữ dội kéo nhau ngồi hết lên sát phông màn tạo dáng. Áo dài, xường sám, đầm ngắn đầm dài, đỏ cam thêu hoa hòe sặc sỡ. Khán giả ngồi dưới bãi cỏ khoảng vài trăm người, đủ cả thanh niên người già trẻ con, cũng vỗ tay cổ vũ đầy không khí.
Ngồi nghe một lúc chẳng thấy họ hát một nhạc phẩm nghiêm túc nào, toàn tự phịa ra hát những câu ngẫu hứng như “Chúng tôi là đàn ông, chúng tôi là con trai...” có gì hay đâu? Tôi quay qua Lệ, nhắc lại câu hỏi về cà nén...
Khán giả quanh chúng tôi bỗng nổi lên cười rộ, tranh cãi ồn ào về các chàng bóng trên sân khấu. Lệ kéo tôi đứng lên. Đi lên bờ cao kia đứng coi rõ hơn. Ngồi đây mỏi cổ quá.
Chúng tôi đứng lên đi vòng quanh sân bãi như đi dạo. Một lần nữa Lệ lại phớt qua vấn đề cà nén tôi quan tâm.
- Tui khờ lắm. Hồi con gái mới lớn lên nghe người ta khen mình đẹp gái dễ thương, tui về soi gương, hú hồn thấy hên quá vì mình chỉ dễ thương chớ không quá đẹp. Đẹp quá tui cũng không thích. Lỡ mình đẹp quá làm sao mình biết được ai thương mình thiệt lòng ai chỉ mê nhan sắc bề ngoài đúng không? Đàn ông ham sắc thiếu gì. Nhưng xấu quá cũng khổ. Tui thấy như tui vầy là ưng ý nhứt.
Ui sao nàng này giống mình vậy? Tôi nghĩ, quên mất Lệ bị chạm.
- Tui không thích lấy chồng giàu - Lệ tiếp - có ông kia, ổng lớn hơn tui mười tám tuổi. Ổng sáu mươi nhưng trắng trẻo phong độ lắm, không phải như mấy ông trong xóm hút thuốc rê nhậu rượu đế nhìn mặt già chát như trái đát đâu. Ông này trí thức mà. Ổng tới thưa chuyện với ba má tui đàng hoàng...
Lệ khẳng định “tui biết ổng thương tui thiệt lòng”, vì lần đầu ổng hẹn đi cà phê tui bận bộ đồ xấu nhứt, tóc cũng cột dây thun không thèm chải. Vậy mà ổng vẫn theo là biết.
Nữa, vụ cà phê này Lệ cũng giống tôi. Riêng chuyện không thích lấy chồng giàu thì hơi khác. Tôi không phải không thích mà không quan tâm. Lúc trẻ tôi cũng giống đám học trò mới lớn thời đó, thích “đối tượng” nào là thích con người hắn, không bao giờ để ý nhà hắn giàu hay nghèo.
Khán giả lại vỗ tay hú huýt rần rần. Trên sân khấu hai chàng trai bận đầm hở áo ngực đính từng chùm dây hạt lấp lánh, đang vừa diễn với nhau chọc cười khán giả vừa nói gì đó về si li cơn (silicon). Gió mạnh giữa đồng thổi tung mấy lớp phông màn bay phất phới. Lệ chợt cúi nhìn một cây cỏ bên rệ đường dưới ánh sáng đèn sân khấu rọi tới từ trên cao.
- Cây này phải mằn ri không? Đúng rồi. Thấy mằn ri mới nhớ, để nhổ về cho bà má. Bả đang muốn cảm.
Khi Lệ túm nhổ, tôi nghe có mùi hăng hắc của lá mằn ri bị giập. Lệ nói mằn ri hay lắm. Trị cảm cứ uống nó là hết à.
Mằn ri hay thì đúng. Tôi phải bái phục cây cỏ này. Nó sống khỏe ở cả những nơi không cây nào ngoài nó sống được như trên một đống xà bần toàn cát khô gạch vỡ, chỉ cầm nhẹ thân cây khẽ nhấc là lôi lên được cả gốc rễ khô rông rổng như ai đó vừa mới cắm xuống. Hay trên một đoạn vỉa hè rìa khu đô thị mới nắng như rang, nó, cũng chỉ duy nhất cỏ mằn ri mọc lên từ kẽ roong giữa những viên gạch lát hoặc khe nứt của một viên bị vỡ. Còn đất lẫn sỏi đá ven đường khô cứng cỡ nào với nó cũng chỉ đáng cười xòa. Nhưng công dụng chữa cảm còn tùy. Tôi uống thấy cũng hiệu nghiệm, nhưng bày cho một số người quen lại nghe phản hồi không mấy tác dụng. Có lẽ mằn ri chỉ công hiệu với người chưa uống nhiều thuốc tây.
- Để nói cho nghe. Biết tại sao tui biết nén cà không?
Thì ra Lệ vẫn đang giải đáp thắc mắc của tôi nhưng phải bắt đầu từ người đàn ông sáu mươi tuổi phong độ, chính là người đã “gieo duyên” cà nén cho nàng. Trong một lần ông ta xuống khu Hoàng Thôn coi đất đã ghé quán mua dưa giá. Lâu lắm mới thấy có người bán dưa giá, ông ta nói và hỏi Lệ biết muối cà nén không. Cà nén là cà gì? Tưởng đâu cà nén là tên một loại cà mới, hóa ra cũng là cà muối nhưng chặn đá nặng lên “nén” cho nó bẹp xuống chứ gì đâu. Nói vậy chứ hũ đầu tiên cũng hư hao mất một mớ. “Do mình không biết cắt cuống, lại muối lạt kiểu muối xổi”. Ông khách hào phóng “mua lại” hết hũ cà hư cho Lệ có vốn muối lại hũ khác. Ông ta còn dặn phải mua cà già, muối thật mặn, bày Lệ cách cắt cuống gọt tai đừng để lẹm vào trái. Ông ta kể hồi xưa cứ gần mùa tết mẹ ông ta hay mua vài bó kiệu để nguyên cả lá cả rễ cho vào nén chung với cà “cho thơm”. Cà hồi đó là cà trắng trái to bằng cái trứng vịt. Nghe vậy Lệ cũng bắt chước đi kiếm kiệu tươi. Tuy chỉ xin được rễ vì chợ chỉ bán củ kiệu không ai bán cả lá, nhưng ông khách đã rất cảm kích trả tiền gấp mấy lần. Rồi mấy nhà hàng tới lấy mối dưa giá phát hiện Lệ có cà nén họ lấy cà nén luôn. Nghề dạy nghề là vậy.
- Để nói nghe. Ông đó ổng giàu lắm. Nhà ổng đẹp khỏi nói, như lâu đài vậy đó. Có phòng nghe nhạc. Có chỗ ngồi cà phê trên sân thượng nữa. Vườn quanh nhà trồng toàn hoa với cỏ không. Tui hỏi có một người thôi tại sao phải xây nhà to nhiều phòng như vậy? (Con ổng đứa nào cũng có nhà riêng hết mà). Ổng cười giống như tui là đồ khùng, thấy ghét.
Ổng nói mọi việc tưới cây cắt cỏ có người, nấu cơm quét dọn có người. Em chỉ làm bà chủ bên cạnh anh thôi. Thích muối dưa muối cà cho vui thì làm, không phải bán quán nữa.
Nghe sướng chưa?
Bởi vậy, mỗi lần ổng đón tui về đó lại thấy một bà đang ngồi chờ trong nhà. Bà cùng câu lạc bộ khiêu vũ, bà cùng hội ten nít. Mấy bả liếc tui từ đầu xuống chân, mở tủ lạnh lấy đồ ra sai chị bếp làm món này món kia như bà chủ vậy. Tui hiểu liền. Đàn ông độc thân cỡ như ổng đàn bà không đeo theo mới lạ. Thử cho ổng ở nhà tui trong Xóm Gò coi có bà nào tới không. Tức cười. Tui không ghen. Thề có trời. Hai biết tại sao không?
Lệ lại chạy đến một cây mằn ri khác. Cây này già gốc to mà đất cứng quá nàng ta phải lấy đà mới nhổ được nhưng vẫn đứt rễ. Xoa xoa bàn tay bị đau, Lệ nói như bào chữa cho việc vừa hủy diệt một đời cây. “Mình không nhổ mùa khô nó cũng tàn. Qua năm có mưa cây con nó mọc như gieo cải vậy đó. Hột nó nhiều lắm”.
Trên sân khấu bắt đầu màn bắt thăm trúng thưởng trong thùng vé, khán giả hào hứng hẳn lên. Chắc hết hát rồi. Tôi nói thôi về.
- Từ từ. Về giờ cũng ngủ chứ làm gì. Để nói cho nghe. Hai biết tại sao không. Tui hỏi ổng tiền ở đâu anh nhiều vậy? Tự nhiên ổng quay qua ngó tui, giống y mấy thằng Tây hấp háy mắt dòm cái nhà bằng đất lợp lá dừa của bà Tám.
“Không ai đi hỏi như vậy. Đúng là mát!”, ổng nói xong thình lình ôm ngang eo tui kéo sát vô hun. Tui vùng ra nhưng tay kia ổng kẹp cứng cổ không cho thoát làm tui bị bịt mồm bịt mũi ngộp thở xém chết. Tui tức chảy nước mắt, bỏ về lặn một lèo không sủi tăm. Ổng nhắn tin xin lỗi, hứa này kia, thấy cũng tội nhưng tui bị dội tắt bếp rồi, hết rồi.
- Chỉ vậy thôi mà chia tay hả?
- Không phải. Tui không thấy thích ổng, không biết tại sao. Tui thích căn nhà, đẹp quá sướng quá mà. Tui đã tính nếu ở đó tui sẽ trồng xoài trồng mít trồng bông cúc bán lai rai cũng có tiền. Nhưng ở chung với ổng thì không thích. Đã nói tui bị chạm mà, quơ quơ quơ - Lệ ngửa mặt cười làm tôi phải cười theo.
- Hồi tối Lệ nói thích câu gì trong bài cải lương?
- Ầu ơ... ơ. Chiều chiều mượn chén ăn cơm. Mượn ly uống rượu mượn đờn khảy chơi - Lệ thản nhiên cất giọng ca.
- Hay mà? - Tôi bật khen.
Quả thật hai câu đó đặt vào câu chốt của bài vọng cổ nghe hay hơn hẳn.
Ầu ơ... ơ - Tôi bắt chước giọng ca Lệ - Chìu chìu mượng chéng ăng cơm. Mượng ly uống rựu mượn đờn khảy chơi.
Tôi bắt đầu thấy thích câu ca. Hình dung một người không có gì cả nhưng vẫn phong lưu, thảnh thơi. Còn tôi suốt một năm qua đã không thoát được tâm trạng lo lắng buồn bực vì giấy tờ căn nhà chưa xong. Giá mà tôi vô tư được như... Lệ.
- Mai đi coi nữa không? - Lệ hỏi.
Tôi định nói tôi không rảnh. Nhưng sực nhớ cảm giác rộn ràng lúc vừa đi qua khỏi bờ tre nhìn thấy ánh đèn sân khấu, tôi chựng lại. “Cũng chưa biết. Nhưng sao nói từ mai hết hát rồi?”.
- Nghe alo thông báo vậy. Nhưng mấy xóm trong đây đang năn nỉ nó ở lại hát tới hết tháng, chưa biết nó có chịu không.
Người ta đang tháo màn sân khấu. Tôi chợt nhớ có lần xem một bộ phim nước ngoài, có nhân vật một người đàn ông nói, đại ý khi người ta đã thấy những gì dưới gầm sân khấu, thì không bao giờ còn muốn xem mọi thứ trên sàn diễn nữa. Tôi rủ Lệ đi lại ngó gầm sân khấu coi có gì không? Đến phiên Lệ nhìn tôi như mấy thằng Tây choai choai nhìn thấy căn nhà đất lợp lá dừa của bà Tám. Nàng gắt “Đi zìa. Mệt bà quá”.
V.H