icon menu
,  
icon menu
Trang chủ
Tin Tức - Sự kiện icon right
Phú Thọ hôm nay
Văn hóa - Xã hội
Kinh tế - KHCN
Hoạt động Hội
Đất Tổ Vua Hùng icon right
Tích xưa cội nguồn
Phú Thọ trong dòng chảy văn hóa
Check-in Phú Thọ
Media icon right
PODCAST
Video
Thư viện ảnh
INFOGRAPHIC, MEGASTORY
Văn học icon right
Truyện, tiểu thuyết
Thơ
Văn học nước ngoài
VHNT các dân tộc thiểu số
Phê bình - Giới thiệu icon right
Nghiên cứu
Tiếng nói văn nghệ sỹ
Tác giả - Tác phẩm
Sáng tạo và cống hiến
Chuyện làng văn nghệ
Nghệ thuật icon right
Mỹ thuật
Nhiếp ảnh
Âm nhạc - Múa
Sân khấu
Bút ký văn học icon right
Sắc màu cố đô Văn Lang
Ẩm thực
Du lịch
Rực rỡ vùng cao
Văn nghệ cấp huyện icon right
Hoạt động
Tác giả, tác phẩm tiêu biểu
Tin Tức - Sự kiện
Phú Thọ hôm nay
Văn hóa - Xã hội
Kinh tế - KHCN
Hoạt động Hội
Đất Tổ Vua Hùng
Tích xưa cội nguồn
Phú Thọ trong dòng chảy văn hóa
Check-in Phú Thọ
Media
PODCAST
Video
Thư viện ảnh
INFOGRAPHIC, MEGASTORY
Văn học
Truyện, tiểu thuyết
Thơ
Văn học nước ngoài
VHNT các dân tộc thiểu số
Phê bình - Giới thiệu
Nghiên cứu
Tiếng nói văn nghệ sỹ
Tác giả - Tác phẩm
Sáng tạo và cống hiến
Chuyện làng văn nghệ
Nghệ thuật
Mỹ thuật
Nhiếp ảnh
Âm nhạc - Múa
Sân khấu
Bút ký văn học
Sắc màu cố đô Văn Lang
Ẩm thực
Du lịch
Rực rỡ vùng cao
Văn nghệ cấp huyện
Hoạt động
Tác giả, tác phẩm tiêu biểu
    1. Trang chủ
    2. Truyện - tiểu thuyết
    Người ở lại
    Truyện ngắn của NGUYỄN THỊ LOAN | 24/06/2025 03:30
    In trang

    Trời lâu lắm không mưa.

    Vách núi khô trắng. Những con ốc bằng gầy rạc, lê chiếc vỏ nặng nhọc lách vào khe suối. Chiều gom nốt vài tia nắng cuối cùng dưới chân núi Bà. Phiên chợ gần đó đã tan, chỉ còn lại đám rác bị gió quẩn dạt vào các chân cột mái hiên căng bạt xiêu vẹo. Tối ở Khe Đon đến thật nhanh. Đám muỗi xoay vòng. Một ông già xuất hiện cùng đám dơi cắt qua cắt lại những vết sắc ngọt trên nền trời bắt đầu nhòa lẫn vào bóng núi. Chúng táo tợn sượt qua đỉnh đầu ông, kêu nháo nhác như lũ chuột, liệng qua liệng lại trên khu chợ cho đến khuya muộn thì lặn vào màn đêm tịch mịch.

     

    Ông già ngẩng lên. Núi thẫm màu như bóng lưng người ngấm mệt, nằm nghiêng thư thả, đầu gối mây, phủ tấm chăn sương. Ông hít sâu làn gió về từ núi, tận hưởng sự yên bình ngập đầy của buổi tối. Lưng mỏi, cúi xuống nghe những khớp xương ken cựa nhau, nhưng ông chẳng hề để tâm đến dấu hiệu rệu rã từ thân thể già nua, tỉ mỉ gom rác, phân loại. Loại nào có thể tái chế, loại nào mang về chôn dưới chân núi. Ông quét dọn quanh khu chợ sạch sẽ, kéo tất cả những bao rác qua phía con lạch, qua đường đất phủ đầy găng dại nở hoa tim tím, qua rìa núi bàng bạc dưới trăng. Bóng ông và những bao tải đổ xuống như con dơi khổng lồ dang đôi cánh rệu rã, uể oải nhưng kiên gan chúi về phía trước. Cái bóng tiến về ngôi nhà nhỏ bằng gỗ dầu và huỳnh đàn nép dưới chân núi; tách bạch, rất gần nhưng lại luôn ở ngoài lề nhịp sống thường nhật của những người dân trong thị trấn.

    Đêm muộn, ông già ngồi bên bàn nước nhìn ra phía cửa sổ hắt ánh đèn. Bóng tối bao trùm, chập chờn như dòng sông đen quánh. Là bóng đêm trôi hay ngôi nhà nhỏ của ông đang trôi? Nếu không có vách núi để ngôi nhà dựa lưng, có lẽ ông cũng sợ mình bị cuốn mất giữa cái bao la quạnh quẽ này. Lũ côn trùng rì rầm bản hợp âm vang vang từ trong lòng đất và những bụi cây. Chúng im bặt khi có bước chân ai đó hay một con vật chạy ngang qua. Những lúc như vậy, ông căng tai, tim vô thức dồn đập. Khoảnh khắc xáo động ấy qua đi như một khoảng trống nhỏ nhoi, nhanh chóng bị sự im lặng ập đến lấp đầy. Ông nhận ra mình vẫn đang chờ đợi. Nỗi mong ngóng chưa lúc nào nguôi, vẫn khắc khoải, mới mẻ như lúc ban đầu, như chưa từng có những thất vọng đã qua, dù biết sẽ chẳng có gì ngoài cô quạnh như một người bạn cố niên. Lí trí đôi lúc trỗi dậy xui rủi ông quên rồi lại thì thầm, day dứt nhớ. Vai ông run lên khe khẽ. Bên ngọn đèn, một thứ kì dị in trên chiếc bi đông bằng đồng sáng bóng đang nhìn ông. Bao nhiêu năm, hình ảnh phản chiếu ấy với ông vẫn như một kẻ xa lạ. Gương mặt ngờ nghệch, thẫn thờ, hốc mũi hở một nửa bao quanh mảng da nhăn nhúm vàng võ, tiều tụy với túm da thừa chảy xệ nối giữa mặt và cổ thành một khối khó phân định. Lâu rồi, ông chưa nhìn thấy mình vui, buồn, đau khổ ra sao bởi khuôn mặt ấy dưới muôn vàn cung bậc cũng chỉ có một nét biểu hiện duy nhất khiến người ta e ngại và sợ sệt. Dù tránh mặt mọi người, nhưng ông biết trong thị trấn vẫn cảm nhận về sự tồn tại của ông bởi sáng ra, dân chợ lục tục dọn hàng thì những đường đất lẫn bậc xi măng đã được quét tước sạch, bàn ghế kê ngay ngắn. Một vài người vô tình bắt gặp ông tỏ ra kinh sợ. Nỗi khiếp đảm ấy sau dần trở nên bình thường bởi những người đã sống lâu năm ở thị trấn. Họ biết rõ về ngôi nhà dưới chân núi sau cái ngày mà một số người ập vào khuấy động sự riêng tư, cô độc và nỗ lực giấu giếm của ông. Khi ấy, Khe Đon mới giải phóng và ông vẫn còn trẻ lắm...

    *

    *      *

    Nửa cuối những năm bảy mươi, núi Bà là những tàn tích sau hơn chục năm giằng co giữa quân giải phóng ở lưng chừng núi và cứ điểm đóng chốt của địch trên đỉnh 986. Sau niềm vui chiến thắng và thống nhất, miền quê nào cũng chằng chịt đau thương. Sự xáo trộn có ở khắp nơi. Khe Đon không ngoại lệ. Người li hương chẳng rõ tung tích; người từ nơi khác dạt đến tản mát, dật dờ. Vì thế, một ngôi nhà lặng lẽ mọc lên dưới chân núi của một người nói giọng Bắc không rõ mặt cũng không ai để ý. Người đó loanh quanh dọc chân núi, cần mẫn vá víu lại mọi thứ. Những hố bom ngổn ngang được lấp bằng. Hàng rào sắn tim tím dần bao lấy khoảng sân đất đỏ. Vì không biết tên, nên mọi người cứ thuận miệng gọi cái người lạ đó bằng “gã”. Và “gã” mặc nhiên trở thành tên riêng của người ấy.

    Một thời gian sau, có vài đứa trẻ con tò mò lân la tới gần nhà “gã”. Chúng bị dáng vẻ “gã” làm cho thất kinh. Bọn chúng mang câu chuyện về kể với người lớn. Qua lời của mỗi đứa, “gã” lại mang một khuôn mặt và dáng dấp khác nhau, khiến người ta chẳng biết nên tin đứa nào. “Gã”, trong trí tưởng tượng của mọi người là một dị nhân sống khép kín, một ẩn số với những người dân thị trấn. Nhưng người ta cũng chẳng bận tâm về “gã” được lâu, bởi khốn khó, nghèo đói nhanh chóng cuốn tâm trí họ vào những mối lo toan khác.

    “Gã” có lẽ sẽ rơi vào mịt mù quên lãng, sẽ hòa lẫn sự cô độc của mình, vào sự cô độc của ngọn núi, chìm khuất, xói mòn, mai một cho đến ngày một đứa trẻ đột nhiên mất tích. Người ta xới tung các ngóc ngách thị trấn. Cuối cùng, chỉ còn lại núi Bà và căn nhà dưới chân núi. Người thị trấn lập tức nhớ đến “gã”, nhớ đến sự kì dị bí ẩn bấy lâu nay. Chẳng ai bảo ai, họ gần như chắc mẩm với những suy đoán. Họ bàn nhau đánh úp căn nhà, dù không tìm được đứa trẻ chăng nữa thì ít ra cũng biết được sự thật trong đó.

    Đêm ấy đã muộn, sương khói vẩn quanh các lùm cây thấp bị bước chân người khua động, vỡ tung lên những bụi li ti. Căn nhà gỗ của “gã” hắt ánh đèn, như con đom đóm leo lét bấu chặt vào chân núi. Ba bốn người đàn ông đạp bung cánh cửa. Căn nhà nông choèn chẳng thiếu, cũng chẳng có cái gì thừa. Cả “gã” và cái bóng của mình cũng vừa vặn như một mảnh ghép bên cái bàn gỗ mộc. Đèn pin khua khoắng mọi xó xỉnh. “Có thấy gì không?” “Chẳng thấy gì... Tinh thứ đồ lỉnh kỉnh!”. “Gã” ngồi im khi người ta ngó nghiêng những kỉ vật gỉ sét: Bộ điện đàm, vài vỏ bom đạn rỗng, đèn măng xông, ăng gô, mũ cối, bi đông... Cuối cùng, họ nhìn đến “gã”. Chẳng ai nói với ai, cả mấy người cùng im lặng. Họ bắt đầu ái ngại và bối rối. “Gã” vẫn ngồi lặng nãy giờ, dường như chẳng quan tâm đến biến động. Bộ dạng chậm chạp uể oải, “gã” hỏi, khuấy tan bẽ bàng từ cả hai phía: “Có chuyện gì vậy?” Mấy người đàn ông nhìn nhau rồi nói với “gã” về đứa trẻ mất tích. Họ đang định đi lên núi. “Gã” đứng dậy, khoác thêm cái áo. “Núi này, không quen đường thì không dễ gì tìm đâu”. “Gã” nói khô khốc.

    Đêm không trăng. “Gã” dắt dây thừng, cầm đèn pin. Ánh sáng lờ nhờ khó khăn đập vào bóng tối quánh đặc. Vách núi đá bắt ánh đèn hơi sáng lên như phản quang. Sương xộc vào cuống phổi khiến “gã” ho khan. “Gã” đi không bằng đôi mắt mà bằng trí nhớ. Càng đi, hình ảnh về con đường lên cứ điểm cao nhất của núi Bà như một bức ảnh đen trắng dần được tô từng mảng màu. “Gã” biết đi xa chút nữa sẽ là một vỉa đá chìa ra, trên đó có những vầng hoa mọc trên thớ đá. Loài hoa màu vàng li ti, kết thành chùm sau tán lá xanh mà đồng đội gọi nó là hoa đá.

    “Khi nào có thể xuống núi, tớ muốn mang một khóm về trồng trước hiên ngôi nhà nhỏ ở quê”. Anh Thực đã nói với “gã” như thế khi đứng hút chung điếu thuốc bên bờ suối. Loài hoa không hương thơm, chỉ có sự giản dị kiên cường với gió núi, bom đạn và thời gian. Loài hoa mỗi khi ra cửa hang, ngó lên, ngó xuống đều thấy chúng lẫn vào bầu trời khi trong, khi vẩn bởi mây và hóa chất địch rải xuống. Ngày giải phóng gần như một cái với tay. Nhưng anh không đi đến được. Tro bụi thân thể anh tan vào đất, tản mát trong khe núi, bám vào đám hoa đá nhỏ nhoi lặng lẽ...

    “Gã” lắc đầu để kí ức bất chợt đến không làm phân tán. Vừa đi “gã” vừa hú gọi. Vọng lại là chính tiếng “gã” va vào vách núi, tiếng lũ dơi kêu chíu chít dò sóng âm bắt mồi. Những khoảng lặng chờ đợi. Những âm thanh va đập. Những căng tai nghe ngóng, tìm kiếm sự phản hồi. “Gã” không có khả năng như lũ dơi. Giữa đêm tối, “gã” chỉ có cây đèn pin, trí nhớ và kinh nghiệm hun đúc bằng rất nhiều sự trả giá.

    Đêm khuya, ngọn núi như một thế giới tách biệt và cô độc. Vượt qua nhiều hang nông những người đốn củi và mục đồng thường nghỉ chân, “gã” ước tính quãng đường một đứa trẻ có thể đi. Loại trừ các hang nông không có rủi ro, còn lại những hang sâu thông sang nhau, ngách hiểm hóc, “gã” nhắm mắt lại lục soát và điểm danh từng vị trí. Một bản đồ vô hình với các chấm đỏ và điểm khoanh vùng hiện lên trong đầu... Gió núi khiến đôi tai ù đi, “gã” chợt nghe như có tiếng trực thăng địch. Vết thương cũ bỏng rát khuôn mặt, lan xuống ngực, cháy rực thân thể và kí ức. Những tiếng nổ lớn của trận pháo nã dồn dập phía trước, ngay sau màn sương mù, chỉ cần “gã” vén lên là có thể bước về những ngày ấy... Nín thở định thần, cố gắng cho đầu rỗng rễnh để ghìm lại kí ức, “gã” lần tới gần một cửa hang hình chữ A tạo bởi hai phiến đá bazan lớn đổ ngang tựa vào nhau. Miệng hang bị bom napalm phát quang, cây cối vẫn chưa thể mọc. “Gã” soi đèn pin đi sâu hơn vào trong, trên vách hang, dòng chữ “1974 quyết thắng” bằng dầu hắc đã bong tróc. “Gã” đứng lặng trân trân. Trận ấy, người em trong trung đội của “gã” đã hi sinh. Dòng chữ đó, Lượng viết. Người đồng đội trẻ cùng “gã” cơm vắt nằm hang, qua bao mùa mưa, mùa khô đã ra đi trong một cái chớp mắt nhẹ. Đêm ấy địch đưa trực thăng thả lính tiếp viện cho các cứ điểm. Trong nỗ lực cản địch tiếp cận mục tiêu, Lượng trúng đạn. Cậu ngã xuống phía trước “gã”, lưng áo đẫm máu. “Gã” chộp lấy khẩu đại liên bắn trả. Hai tên nhảy dù trúng đạn nảy ngược về sau, bật khỏi vách núi. “Gã” tiếp tục yểm trợ cho đại đội 12ly7 ở phía trên bắn hạ trực thăng. Đạn sáng rực trời.

    Sáng hôm sau, bầu trời trên núi Bà bình yên trở lại. Như chưa hề có những mất mát, chưa hề chứng kiến một vài con người đã không còn dưới bầu trời này nữa.

    Dung từ chùa Bà trên núi xuống, bần thần khi biết Lượng đã hi sinh. Cô chắp tay, nhắm đôi mắt có hàng mi dày, khẩn cầu lầm rầm. “Gã” nhìn mái tóc cô đen mượt buộc gọn gàng. Dung vẫn chưa xuống tóc. Cô đưa đồ tiếp tế, nói rằng vừa rồi bọn chúng sục sạo quanh chùa, dọa đuổi tất cả xuống núi.

    “Gã” tiễn Dung qua con suối Vàng. Dung không còn muốn gieo mình xuống núi nữa. Không hiểu vì sao, nhưng đôi mắt Dung đầy nhẫn nhịn. Có gì đó âm thầm đổi thay khiến chính “gã” hoài nghi. “Gã” hỏi, Dung đã quên được chưa, người đã khiến Dung đau đớn đến muốn từ bỏ cả cuộc đời. Dung khẽ liếc “gã” rồi thả ánh nhìn về đâu đó vô định phía bụi lau bà cao vồng hai bên bờ suối, như đã sắp xếp những nỗi buồn cất vào ngăn của riêng mình. “Đâu phải cái gì cứ không còn nữa mới là đánh mất...”. Gương mặt Dung tựa nắng trong cơn mưa bóng mây cuối ngày. “Gã” cũng đã bắt gặp nụ cười và gương mặt ấy, khi cùng Lượng kéo được cô ra khỏi vách núi. Giằng co, vùng vẫy. Dung chỉ cam chịu khi ngã xuống khe suối ướt đẫm.

    Điều gì đã thay đổi cô gái ấy? “Gã” không còn tìm thấy dấu vết của chính Dung ngày đầu gặp. Khuôn mặt tròn trắng sứ, mái tóc đen búi cao kiêu hãnh, áo tầm vông, xà rông vàng đính kim sa lấp lánh lộ đôi cánh tay trắng và dáng dấp mảnh mai, Dung giống như bông champa tươi tắn. Với “gã” đó là hình ảnh đẹp đẽ nhất giữa núi rừng, giữa đạn bom khói lửa. Hình ảnh ngỡ là vĩnh cửu, không bao giờ mất đi bất chấp những bấp bênh, hủy diệt. Nhưng nó đã rời đi, mong manh như làn sương sớm bị cái nắng đầu ngày làm cho tan biến.

    Dung theo mẹ lên núi sau một trận càn của địch. Hai mẹ con nương nhờ chùa Bà, gánh nước, nhặt củi. Mẹ Dung xuống tóc tịnh tu. Dung lớn lên giữa tình yêu thương của các sư trong chùa. Cô giúp các sư bí mật tiếp tế lương thực, thuốc men cho bộ đội. Dung nhu mì, lặng lẽ và hiền lành. Chẳng ai nghĩ Dung có thể phản ứng dữ dội như vậy. Ngày Dung muốn xuống tóc, Dung đã quỳ dưới chân trụ trì. Câm lặng, dồn nén. Mái tóc Dung xổ tung. Trụ trì nhìn Dung bằng cái nhìn hiền từ và thấu suốt. “Nước mắt cũng có vị mặn như nước biển vậy. Đau khổ của mỗi người chỉ là nhỏ nhoi trước bể khổ cuộc đời. Chỉ cần có thể buông, một ngày nào đấy, con sẽ thấy bình tâm...” Ngài quay lưng, tiếp tục niệm kinh. Dung đã ngồi rất lâu... Không hiểu vì lí do gì, sau đó, Dung không còn đòi xuống tóc nữa. Một sự thay đổi âm thầm và lặng lẽ chỉ riêng cô biết. Vô thức, ánh mắt “gã” lướt nhanh qua bụng Dung. Cảm giác, mặt “gã” đỏ dừ khi gương mặt đầy tâm trạng của anh Thực trong buổi chiều hai anh em ngồi tâm sự lướt qua đầu...

    Mãi đến sau này, trong những giấc mơ chập chờn trở về hàng đêm như một cánh cửa hé mở về quá khứ, ”gã” chợt nhìn thấy Dung lần cuối cùng trước trận chiến giải phóng núi Bà. Dung gầy rộc đi, tái xanh. Dưới làn áo mỏng, cái bụng nhô cao. Dung nhìn “gã” mỉm cười. Khuôn mặt cô rạng lên niềm hạnh phúc nhỏ bé và nhẫn nhịn. Bóng Dung mờ dần, trong suốt rồi biến mất. “Gã” bật dậy, đẫm mồ hôi, nặng nề như vừa vật lộn với cơn mơ. Hình ảnh ấy thường xuyên trở đi trở lại trong nhiều khoảnh khắc. Và nó thành nỗi mong ngóng mơ hồ, hi vọng trong quãng đời lặng lờ, đầy hoài niệm của “gã” về sau.

    *

    *      *

    “Gã” đã đi đến giữa hang, nơi có những ngách nối ngã ba, ngã tư. “Gã” biết, hang này còn thông lên một tầng nữa, cả hai tầng đều sâu. Những phiến đá lổn nhổn đứng nằm như bóng người quằn quại rải rác hai bên lối đi. Chập chờn những đồng đội thiêm thiếp, hàm răng cắn chặt ghìm đau đớn. Không khí ngột ngạt, tanh nồng của máu, mùi từ những vết thương hoại tử quyện cùng mùi khét thuốc súng. “Gã” gọi, nghe giọng mình vang lại có chút lạ lẫm, lạc đi. Một ai đó đang nói với “gã”. Âm thanh lạnh lẽo, nghi hoặc, có chút như châm biếm, rồi là sự im lặng lạnh lùng. “Gã” hoảng sợ. Có phải anh Thực không?

    Anh Thực quê Thái Bình, còn “gã” ở miền trung du Phú Thọ. Những ngày chiến sự bớt căng thẳng, anh cùng “gã” đi bắt ốc, hái lá bứa và rau sao nhái. Sáng sớm còn ẩm sương, anh kéo “gã” đang ngái ngủ dậy. Anh bảo đi bắt ốc bằng. Từng đàn ốc bằng như những đồng xu lớn nhỏ từ các hốc đá bò ra kiếm mồi cạnh gốc mã tiền và vong núi. Anh bảo lũ ốc ưa ẩm ướt, dễ bắt lúc trời sương sớm hoặc vừa mưa xong. Tối về cả đơn vị có thêm món ốc nướng. Riêng anh Thực không ăn. Anh vẫn nhớ lần đầu ăn loại ốc có mùi vị như bùn này. Anh cũng cố tập ăn, bởi khi lương thực hết thì ốc, thằn lằn núi hay rau dại đều là thứ xa xỉ. Nhưng đến đêm, anh bị dị ứng nôn thốc nôn tháo. Cả đơn vị chẳng ai bị ngoài anh. “Gã” đặc biệt quý anh bởi sự hiền lành, chất phác. Tình bạn, tình đồng đội giản dị trong khốn khó, hiểm nguy ấy bỗng chốc thành hư không sau một khoảnh khắc bàng hoàng, nuối tiếc.

    Đó là khoảng thời gian căn cứ địch đóng ở núi Bà điên cuồng kiểm soát dưới chân núi. Cảm nhận được sự li biệt, Dung trốn xuống được nơi tập kết. Dung nói, dù thế nào cũng sẽ đợi các anh ngày xuống núi. Dung đứng trước anh Thực, bên cạnh mỏm đá. Cô nhỏ bé và tái nhợt. Dù cô cố gắng kéo xuống vạt áo, sự lúng túng ngượng ngùng và những thay đổi không thể che đậy từ thân thể khiến người đàn ông trước mặt cô lặng đi. Và cả “gã”. Đó là hình ảnh cuối cùng về Dung trong “gã”, ghim sâu như một tấm tranh đóng đinh lên bức tường rêu phong cũ kĩ của kí ức. “Gã” không rõ họ nói gì, chỉ thấy anh Thực cứ đứng vậy, lặng im dù Dung đã bỏ đi khuất bóng. “Gã” cảm thấy như đất dưới chân chao đảo.

    “Gã” nhớ lại buổi chiều mùa khô khắc khoải, “gã” và anh ngồi trước miệng hang, ngó ra bầu trời trống vắng ngóng một vệt mây. Ngọn núi khô khát cháy. Suối cạn trơ sỏi đá. Mặt ai nấy khô nẻ, cháy sạm bởi cái hanh hao của gió. “Ngày thứ bao nhiêu rồi nhỉ. Mai liệu có mưa không?” Hôm qua “gã” cũng hỏi anh câu ấy. Trong nỗi lo khó lòng cầm cự, anh lặng nhìn vài cái vỏ ốc rỗng tuếch, bợt màu rơi ra từ kẽ đá. Anh nhớ về miền quê mình. Những cánh đồng lúa tươi xanh được con sông đổ phù sa về tưới tắm. Dòng sông ăm ắp nước mát lành ôm ấp cả tuổi thơ anh. Ở quê, bố mẹ đã chọn được vợ cho anh, một cô gái cùng thôn, anh có gặp đôi lần mà không nhớ rõ. Chỉ còn chờ anh về để tổ chức một đám cưới nho nhỏ. Thời buổi chiến tranh loạn lạc là vậy, người con gái cảm mến anh đã thay anh chăm sóc bố mẹ. Rồi sẽ là một đám cưới vội vàng khi anh có dịp tranh thủ. Rồi sẽ là sự mong ngóng một đứa trẻ được ra đời trong những lần tranh thủ khác. Chiến tranh, ai mà chẳng vậy. Nhưng anh đã đem lòng yêu thương một người con gái khác. Anh cười thật buồn giữa cái khô cháy của những vệt cỏ, bụi cây cằn cỗi ngả màu. Ngày mai sẽ ra sao, chẳng ai có thể biết trước giữa làn mưa bom đạn này. Ngày mai có mưa không, họ cũng chẳng thể nào biết trước.

    “Gã” cảm thấy mọi thứ đột ngột tràn tới nhấn chìm trong cảm giác chới với như chính mình bị lừa dối. “Gã” chẳng biết, nhưng những ngày sau đó, “gã” tỏ ra xa lánh mà chính anh cũng không hiểu nguyên do từ đâu.

    Sau hôm Dung xuống đơn vị, cả chùa bị dồn xuống chân núi. Địch chia cắt sự tiếp viện, cô lập quân giải phóng giữa lưng chừng núi. Người từ dưới núi lên bị cấm đoán, kiểm tra gắt gao. Cuộc chiến bước vào thời khắc cam go nhất, giằng co từng mỏm đá, tấc đất. Máy bay địch quần thảo thả lính nhảy dù tiếp viện trên đỉnh núi và tấn công đồng thời từ chân núi lên. Ở lưng chừng núi, quân giải phóng chia làm hai mũi tấn công lên căn cứ truyền tin. Đó là khoảng thời gian ngọn núi rung chuyển bởi hỏa lực của cả hai bên.

    Ngày hôm đó, cánh của “gã” nhận được lệnh di chuyển từ dưới lên tiếp cận mục tiêu lô cốt bảo vệ của địch. Trời sáng, gần ra được khỏi hang thông lên tầng trên thì mũi tiến công bị lộ. Một nòng pháo của địch đã chĩa về phía miệng hang. “Gã” khựng lại. Anh Thực đứng ngay phía sau. Khoảnh khắc ấy “gã” không biết mình có hoàn toàn vô tình không. “Gã” đã do dự. Sự nhanh nhẹn của một trinh sát bỗng chốc tê liệt một cách khó hiểu. Tích tắc ấy đã trả cái giá rất đắt. “Gã” chỉ còn nhớ anh Thực kéo giật “gã” về phía sau. Cú rung chuyển rất mạnh, lửa bùng lên chói lòa, “gã” ôm mặt. Tất cả chỉ còn lại là lửa và những bỏng rát trên mặt và ngực “gã”. Trước khi ngất đi, “gã” nhìn thấy đá đổ xuống, vùi lấp bầu trời ngay phía trước. Đó là khoảng tối “gã” không sao quên được trong đời, là bóng đêm tràn đầy nhất. Khoảnh khắc tràn ngập ánh sáng của chiến thắng sau này cũng không sao chiếu rọi đến được bóng tối ập xuống nơi miệng hang trong “gã” ngày nào.

    Khi “gã” tỉnh lại, khuôn mặt đã được băng bó. Đồng đội dìu “gã” vòng ngược lại cửa hang phía sau. Anh Thực bị mắc kẹt trong những tảng đá đổ xuống. Thân dưới anh khuất trong đá. Mắt anh không nhắm, như đang nhìn trời xanh, nhìn những trảng hoa đá cheo leo phía trên vách núi. Không thể đưa được anh ra, trong thời tiết nóng nực của chuỗi ngày khô hạn, đồng đội phải thiêu xác anh ngay tại đó để địch không thể phát hiện. “Gã” đứng nhìn theo những tàn tro bay lên, bay lên mãi. Đáng lẽ tàn tro đó là “gã”...

    “Gã” tìm thấy thằng bé khi nó lọt xuống một cái ngách, đói rét và kiệt sức. Nó nhìn “gã” bằng cái nhìn mừng rỡ, không hề sợ sệt. Lúc cõng nó trên vai, “gã” thấy đôi tay nhỏ của nó vòng qua cổ mình thật chặt. Vô thức, mắt “gã” cay sè. Cảm giác lạ lẫm, một bình yên nho nhỏ. Đâu phải khi nào cũng có thể bước ra khỏi hang bình an và không mất mát. Đồng đội vẫn ở phía sau, đâu đây thôi. Và anh Thực nữa. “Gã” ngoái nhìn. Chỉ còn lại “gã” cô độc giữa những vách đá cheo leo. Trước đây, đã nhiều lần “gã” định bỏ đi. “Gã” đã đi như trốn, nhưng lại hèn nhát không thể đi đâu quá xa được. Cứ mãi quẩn quanh ở chân núi này, vun vén, chăm chút và canh giữ những quá vãng một cách lặng lẽ, cẩn trọng.

    “Gã” chờ. Một điều mà có lẽ chính “gã” cũng hết sức mơ hồ.

    *

    *      *

    Một ngày cuối mùa khô, cây dầu cổ thụ bên kia con lạch đã trơ trụi lá. Bầu trời đùng đục một màu nửa xanh nhờ, nửa trắng sữa. Chẳng ai có thể nhìn mà dự đoán những cơn mưa. Lá dầu rụng đầy, xáo xác. Ông già mở rộng cánh cửa gỗ, ngồi nhìn ra ngoài. Có bước chân rất chậm và giòn tiếng lá khô gẫy. Tim ông đập nhanh dần. Đã nhiều lần thế này và lần nào ông cũng tin tưởng và hi vọng, lần nào ông cũng ngỡ sẽ là thật... Nhưng lần này khác lắm. Khoảnh khắc ấy, ông không nghĩ gì, quá khứ hay những điều sẽ đến, chỉ còn hiện tại. Ông ngồi im bên bàn gỗ, ánh mắt không chớp. Một dáng hình trong chiếc váy vàng, mái tóc đen xõa ngang vai đang đứng dưới bóng cây dầu trơ trụi lá. Ánh sáng trước cửa bừng lên. Là Dung! Dung vẫn như ngày nào, chẳng khác gì với lần cuối cùng gặp. Dung có nhận ra ông không, trong hình hài này? Ông ngồi im bất động sợ cơn mơ bất chợt tan biến mất. Dung bước gần hơn, qua khoảng sân, qua ngưỡng cửa. Ông kịp nhận ra, cô gái ấy rất giống, nhưng không phải là Dung. Như phiên bản Dung những năm xa xôi ấy...

    Cô gái rời đi, mang trên tay khóm hoa đá ông vẫn chăm chút trước hiên nhà. Cô gái là ai, không còn quan trọng nữa. Ông đã già rồi. Ông nhắm mắt lại, thấy trong khói sương mông lung, Dung cười, vẫy tay chào. Không còn đột ngột mờ ảo rồi biến mất như mọi khi, cô đi về phía con đường mòn quen thuộc luôn mở ra trong những giấc mơ. Đi đến cuối con đường và khuất bóng. Miền quá vãng như một mảnh đất chẳng khi nào mất đi, giờ là lúc đón nhận bước chân ông trở về gặp lại những bóng dáng đồng đội khi xưa. Ông nhìn lên ngọn núi xanh mờ, loang lổ những khoảng trống mà cây cối chưa thể hồi sinh, như thấy lại cuộc hành quân cấp tập lên núi ngày nào. Nhành hoa đá nhỏ xíu yên lặng cạnh bước chân dồn dập. Những bóng lưng nối nhau lặng lẽ, ba lô phủ đầy bụi đất.

    Căn nhà gỗ dưới chân núi lâu nay cửa vẫn mở. Gió Tây Nam tràn vào ướt rượt mùi sắt hoen gỉ. Trước sân, những bụi cỏ mào gà, thạch xương bồ lút lối đi. Lũ dơi tràn vào lẩn sau vỏ bom đạn gỉ sét. Có người nhìn thấy ông già đi lên núi và không quay xuống nữa. Đó là ngày cơn mưa đầu mùa đổ xuống, bầu trời xám sà thấp, mịt mù hơi ẩm, kết thúc những chuỗi ngày khô hạn mòn mỏi và dằng dặc đã qua. Thị trấn co lại như trong một vòm hang khổng lồ. Núi Bà chìm trong màn mưa mỏng nhẹ chao xuống như sương...

                                               N.T.L

    Chia sẻ
    TIN KHÁC
    img
    Lên vùng cao
    img
    Thư gửi dưới gốc sắn
    img
    Bông bần rụng trắng
    img
    Đứng dậy sau cú ngã
    img
    Ranh giới của hạnh phúc
    img
    Hội Gầu Tào ở Nùng Xín
    img
    Mưa trong lòng Hạ
    img
    Thả chim
    img
    Hạnh phúc giản đơn
    img
    Dọc theo mùa đói
    Xem thêm

    Gặp mặt, ra mắt Chi hội Mĩ thuật Việt Nam tại Phú Thọ, nhiệm kì 2025 - 2030

    Ngày 1/8/2025 tại Hội Liên hiệp VHNT Phú Thọ, Chi hội Mĩ thuật Việt Nam tại Phú Thọ đã tổ chức Hội nghị gặp mặt, ra mắt Chi hội Mĩ thuật Việt Nam tại Phú Thọ, nhiệm kì 2025 - 2030. Tới dự có họa sĩ...

    Hội thảo với chủ đề “Văn học nghệ thuật cùng đất nước tiến vào kỷ nguyên mới” tại Hải Phòng

    Ngày 30/7, tại phường Đồ Sơn, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật thành phố Hải Phòng chủ trì tổ chức Hội thảo với chủ đề “Văn học nghệ thuật cùng đất nước tiến vào kỷ nguyên mới”. Dự...

    Lấy ý kiến tham gia vào dự thảo các văn kiện của Đảng

    Ngày 9/7, Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy tổ chức hội nghị lấy ý kiến tham gia vào Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng và Đại hội đại biểu của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, nhiệm kỳ 2025-...

    Đại hội Chi bộ Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Phú Thọ, nhiệm kỳ 2025-2030

    Ngày 30/6/2025, Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Phú Thọ tổ chức Đại hội Chi bộ nhiệm kỳ 2025-2030. Tới dự có đại diện Đảng ủy các cơ quan Đảng tỉnh; các đồng chí trong Cấp ủy Chi bộ và toàn thể đảng...
    CƠ QUAN NGÔN LUẬN CỦA HỘI LIÊN HIỆP VĂN HỌC NGHỆ THUẬT PHÚ THỌ
    Tổng biên tập: Nhà văn NGUYỄN THỊ HỒNG CHÍNH
    Mọi thông tin, sao chép, khai thác tổng hợp phải ghi rõ nguồn Tạp chí Văn nghệ Đất Tổ online và phải được Tạp chí cho phép bằng văn bản
    CHUYÊN MỤC
    Tin tức - sự kiện Phú Thọ hôm nay Văn hóa - xã hội Kinh tế - KHCN Hội Liên hiệp VHNT Tạp chí in Văn nghệ cấp huyện
    Đất Tổ Vua Hùng Media Văn học Phê bình - Giới thiệu Nghệ thuật Bút ký văn học Thông tin đơn vị, doanh nghiệp
    THÔNG TIN LIÊN HỆ
    Địa chỉ: Tạp chí Văn nghệ Đất Tổ Online
    Điện thoại: 0210.3811984; 3816945
    Email: tapchivannghedatto@gmail.com
    Giấy phép số 486/GP-BTTTT, ngày 10/10/2022 của Bộ Thông tin và Truyền thông về việc cho phép Tạp chí Văn nghệ Đất Tổ hoạt động 02 loại hình là: Tạp chí in và Tạp chí điện tử
    LIÊN HỆ QUẢNG CÁO
    Liên hệ quảng cáo:
    Thông tin liên hệ gửi bài cho Tạp chí

    Số lượt truy cập: