Hai huyện vùng Mường Thanh Sơn, Yên Lập và huyện Cẩm Khê thuộc đất Tổ, Phú Thọ từng là bức phên dậu che chắn người Âu Việt do Thục Phán làm thủ lĩnh xâm lăng thành Phong Châu của người Lạc Việt do Vua Hùng cầm đầu. Ngày nay còn nhiều truyền thuyết anh hùng và truyền thuyết phong thổ liên quan đến lịch sử thời cổ đại ấy.
Làng Văn Khúc Cẩm Khê còn nhiều chứng tích về thời kỳ Vua Hùng thứ 18. Tương truyền vua đến đây gặp cô gái xinh đẹp tên là Quế Anh rồi cưới nàng làm vợ. Các công chúa Tiên Dung, Ngọc Hoa được sinh ra ở đây. Còn một công chúa nữa bị đắm đò được mai táng thi hài ở một đảo đồi. Ở đó nay có đền thờ công chúa xấu số. Quả gò giữa đầm nước ấy hiện vẫn gọi là Gò Thờ.
Làng Văn Khúc là quê hương của Ma Khê. Lương tướng Ma Khê, người Tày từng là phụ quốc của Vua Hùng - người dạy dỗ Vua Hùng từ khi còn nhỏ. Ở làng này còn có đền thờ nơi Ma Khê hội kiến với bộ tướng Tản Viên, người Việt Mường là con rể Vua Hùng.
Tương truyền Ma Khê sang lấy vợ bên làng Vi, cạnh đền Hùng. Ở đây ngày nay vẫn có xóm Bản Pheo, theo ngữ hệ Tày Thái thì Bản Pheo chính là xóm Tre do vậy xóm Bản Pheo còn có tên gọi thuần việt là Xóm Tre. Trong ba ngọn núi thiêng ở Đền Hùng được coi là tam sơn cấm địa trong tâm linh người Việt có ngọn núi Nỏn, gọi theo ngữ hệ Tày Thái, đồng thời núi ấy cũng có tên thuần việt là núi út (Nỏn là út). Quanh Đền Hùng có 50 đám ruộng được gọi là Na, theo cách gọi của người Tày, na chính là ruộng. Hơn nữa đoạn sông Hồng từ Yên Bái về Việt Trì cũng được gọi theo hệ ngôn ngữ Tày Thái là sông Thao, phiên âm từ dòng Nậm Tao mà ra. Điều này cho thấy từ Văn Khúc sang Lâm Thao Phú Thọ từng là nơi ở xen kẽ giữa người Lạc Việt và người Tày Thái cổ. Việt Trì là kinh đô của nước văn Lang. Chủ nhân của nước Văn Lang là người Lạc Việt hay còn gọi là người Việt Mường, sau tách thành hai nhóm Kinh, Mường.
Người Tày Thái vốn là thần dân của Thục Phán quản lĩnh miền Tây Bắc. Một bộ phận người Tày cổ như Ma Khê đã bỏ Thục Phán theo về sống với Vua Hùng. Ma Khê ắt là người tài giỏi nên được Vua Hùng cho trấn giữ ở Văn Khúc để ngăn chặn quân của Thục Phán tràn xuống.
Ở Văn Khúc có nhiều truyền thuyết về cuộc chiến Hùng Thục. Làng này có rừng cây cung cấp nhựa làm mũi tên độc cho quân lính nhà Hùng đánh lại nhà Thục. Rừng này giờ vẫn gọi là khu rừng cây thuốc. Cây thuốc hiện vẫn còn. Truyền thuyết về Ma Khê còn gắn với di tích Tam Thành ở làng Văn Khúc. Con cháu Ma Khê sau này rời Văn Khúc sang xây Ma Thành, thành của người họ Ma ở thị xã Phú Thọ. Ma được gọi chệch là mè. Thị xã Phú Thọ vì thế còn dấu tích Thành Mè và chợ Mè. Ma Khê còn được thờ ở Trù Mật cạnh thị xã Phú Thọ. Ông là cụ tổ họ Ma hiện con cháu vẫn sống đông đúc ở Việt Trì và nhiều huyện trong tỉnh. Người Tày họ Ma ở Phú Thọ nay đã việt hóa thành người Kinh.
Từ Văn Khúc vượt qua dãy núi Cột Cờ là vùng đất của người Mường Phú Thọ. Vùng đất này còn đậm đặc dấu tích lịch sử thời Hùng Vương, đặc biệt là chứng tích khảo cổ học. Nhiều di chỉ thuộc văn hóa khảo cổ Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun phát hiện được chứng tỏ con người tiền sử từng đã sinh tụ ở đây. Các trống đồng Hê Gơ loại một tìm thấy ở hai huyện vùng Mường Thanh Sơn, Yên Lập cùng với việc thống kê được hàng loạt di tích thờ cúng và các thần tích, truyền thuyết lịch sử càng chứng tỏ đây từng là đất bản bộ của các Vua Hùng.
Chỉ riêng ở vùng Mường Phú Thọ đã tìm được gần bảy mươi trống đồng Hê-Gơ loại II, nhiều gấp hai ba lần số trống đồng cùng loại tìm thấy được ở các vùng mường trong cả nước cộng lại. Trống Hê-Gơ loại II còn gọi là trống Mường vì nó chỉ có ở các vùng Mường. Khoa học đã chỉ rõ chủ nhân của văn hóa Đông Sơn mà tiêu biểu là trống đồng Đông Sơn hay trống Hê-Gơ loại I là người Lạc Việt, nhóm Tộc người gốc của người Mường và người Kinh sau này.
Người Lạc Việt thời văn hóa Đông Sơn đã thành lập quốc gia cổ đại với tên nước là Văn Lang, nhà nước thời các Vua Hùng. Các di chỉ cư trú và mộ táng ở làng Cả Việt Trì đã khai quật được với hàng ngàn hiện vật đặc biệt là các đồ tùy táng đã chứng tỏ đây từng là nghĩa địa của các bậc lạc hầu lạc tướng. Đây chính là kinh đô Phong Châu.
Khi người Hán xâm lược nước ta họ đã tịch thu trống đồng của cư dân Văn Lang (khi ấy đã hợp nhất với người Âu Việt để thành dân Âu Lạc). Tịch thu trống đồng để đúc vũ khí và mục đích chính là hủy diệt văn hóa Việt Nam.
Ở vùng ngoài, trống đồng từ đó không được đúc, không được đánh. Dân ta phải chôn giấu, do vậy ngày nay ta mới đào được các trống Hê-Gơ I mà cái có kích cỡ lớn nhất được tìm thấy ngay ở chân núi Đền Hùng.
Ở vùng trong, vùng người Mường, đặc biệt là ở đất Mường Phú Thọ, phía tây thành Phong Châu cổ do núi rừng hiểm trở người Hán không đủ sức kiểm soát, dân ta vẫn tiếp tục đúc trống đồng và đánh trống đồng vào các dịp lễ hội của làng. Trước Cách mạng tháng Tám các Mường Phú Thọ đều có tục chàm thau (đánh trống đồng) cách đánh trống như giã gạo, đúng với hình người đánh trống đắp, khắc trên mặt trống đồng Đông Sơn.
Trống đồng vùng Mường ra đời trong hoàn cảnh mất nước nên nghệ nhân dân gian đúc trống với kiểu dáng, hoa văn đơn giản hơn, hợp với không khí thời chiến. Vì thế nó có tên khoa học là trống Hê-Gơ loại II ra đời sau trống Hê Gơ loại I có từ thời Hùng Vương.
Vùng Mường phía tây thành Phong Châu cổ có ngọn núi Lưỡi Hái giống hệt cái lưỡi hái ngửa lên trời. Nhìn ngọn núi như lưỡi dao cắt trời này, người Hán phải thốt lên đây là đất nghịch không thể khuất phục được!
Trên núi Lưỡi Hái có loại trúc cụt ngọn. Truyền thuyết phong thổ hòa trộn với truyền thuyết lịch sử kể rằng khi Thục Đế (Thục Phán) đem quân đến, quân của Vua Hùng đã bẻ ngọn trúc làm mũi tên bắn phá quân giặc. Từ đấy trúc mọc trên núi Lưỡi Hái trở thành giống trúc cụt ngọn.
Do ở giáp ranh với bộ tộc Âu Việt nên vùng này còn dày đặc những tục hèm, truyền thuyết và tín ngưỡng về thời Hùng Vương. Ở xã Thượng Long, Yên Lập và thôn Lưa xã Tân Lập còn thấy ở nhiều nhà cái, nhà con trưởng còn lập bàn thờ dòng dõi thờ Vua Hùng và dòng họ Tổ tiên từ đời thứ năm đổ đi. Trong bàn thờ gia tiên của các gia đình người Việt và người Mường vì thế mới thờ ông bà bốn đời đổ lại. Thờ ai thì bàn thờ bày ảnh thờ, bát hương bài vị của người ấy, bát hương thờ Tổ tiên có thể dùng chung nhưng ảnh, bài vị người nào cao nhất thì đặt ở vị trí trên cùng. Do tục này mà người Việt, Mường có câu “Ngũ đại mai thần chủ”. Thần chủ được đem chôn để các cụ trở thành cao tằng tổ tỷ của dòng họ.
Truyền thuyết Vua Hùng trong đuổi giặc Thục ở làng Lưa, do vậy ở đây người Mường mới xây đình Lưa để thờ cúng. Các làng Hương Cần, Cự Thắng, Tất Thắng đều đậm đặc dấu chân của Vua Hùng và con rể người là Sơn Tinh cùng các em ông là Cao Sơn, Quý Minh đánh đuổi giặc ở đây.
Tục thờ Tổ vẫn in đậm trong các họ người Mường ở vùng phía tây của tỉnh Phú Thọ. Ngày nay người ta vẫn tôn thờ các vật tổ. Họ gọi vật tổ là “con họ”. Không ăn thịt các “con họ”. Thậm chí khi gặp các “con họ” chết, người ta còn tổ chức mai táng như mai táng người thân. Nhưng tô tem ở đây không phải là vật tổ ra đời từ xã hội thị tộc tảo kỳ. Nó không phải là “người cha” như quan niệm cổ sơ hồn nhiên nữa mà vật tổ đang thờ hiện nay được ra đời từ thời Hùng Vương, thời phụ hệ, phụ quyền. Những loài cây, loài con được thờ vì có công che chở cứu giúp ông cha họ thoát chết vào tay giặc. Sự tích ấy con cháu đời đời được truyền lại để thờ cúng và mang ơn thí dụ khi bị giặc đuổi họ náu vào bụi rậm, khi giặc lùng sục thì con chim hay con cuốc chạy ra, nhờ vậy giặc không lùng sục nữa. Họ Mường nào cũng có tục thờ tô tem này. Điều đó cho biết chiến tranh giữa hai bộ tộc Âu Việt và Lạc Việt diễn ra ở vùng này ác liệt hơn ở vùng ngoài.
Trong kho tàng truyền thuyết Hùng Vương thì ở vùng ngoài, quanh kinh thành Phong Châu huyền thoại toàn truyện như Vua Hùng tìm đất đóng đô, Vua Hùng dạy dân cấy lúa ở làng Lú, Vua Hùng đi săn ở Phù Ninh, Vua Hùng vời người hát Xoan ở Kim Đức, hay Vua Hùng dạy dân làm kiệu, làm mật mía v.v... ít hơn chuyện Vua Hùng đánh giặc vì ở vùng này sát kinh thành Phong Châu có nhiều binh hùng tướng giỏi lại có sự canh gác cẩn mật, giặc họa có khi mới dám đánh đến. Còn ở phía Tây thành Phong Châu cổ, giặc Thục ở Sơn La thường xuyên xâm lấn. Do vậy từ truyền thuyết đến tục hèm cầu tế đều nói đến sự kiện trên.
Nghiên cứu sâu mọi mặt ở vùng phía tây này chắc chắn sẽ nói rõ hơn lịch sử thời Hùng Vương dựng nước, giữ nước ở trên vùng đất Tổ này.
N.H.N