Năm 1976 - 1980, Nguyễn Anh Tuấn học ngành Khảo cổ, thuộc Khoa Lịch sử Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội). Sau tốt nghiệp, anh nhập ngũ tham gia Quân đội, đóng quân ở Động Lâm - Sơn Tây. Từ tháng 6/1981 đến tháng 10/1982, Nguyễn Anh Tuấn làm cán bộ giảng dạy bộ môn Lịch sử Trường Văn hóa Quân khu IV đóng tại Thừa Thiên Huế. Ra quân, Nguyễn Anh Tuấn xin về công tác tại Bảo tàng Hùng Vương thuộc Ty Văn hóa Thông tin tỉnh Vĩnh Phú. Trong quá trình công tác, Nguyễn Anh Tuấn được tỉnh Vĩnh Phú cử đi làm Nghiên cứu sinh tại Viện Khảo cổ, thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) từ năm 1986 - 1990. Năm 1996, anh bảo vệ thành công Luận án Phó Tiến sĩ Sử học: “Về Cụm đình Tam Canh trong hệ thống đình làng trung du Bắc Bộ”.
Khi bước sâu vào đời công tác nghiên cứu lịch sử, thám sát - khai quật khảo cổ học và bảo quản - trưng bày cổ vật, với niềm đam mê - yêu say nghiệp Sử, Nguyễn Anh Tuấn đã lần lượt cho ra đời những sách nghiên cứu tìm tòi về Văn hóa - Danh thắng, Kiến trúc, Phát hiện Khảo cổ học của mình. Có thể kể tên một số đầu sách như sau:
- Phần: Vị trí Văn hóa vùng đất Tổ - In trong tập sách Đồng bằng sông Hồng - Nhà xuất bản Khoa học Xã hội năm 1988.
- Di tích và danh thắng vùng đất Tổ - Sở Văn hóa - Thông tin Phú Thọ xuất bản năm 1998.
- Đình Hương Canh - Sở Văn hóa - Thông tin Vĩnh Phú xuất bản năm 1999.
- Trống đồng vùng đất Tổ - Sở Văn hóa - Thông tin Phú Thọ xuất bản năm 2000.
- Nghiên cứu Văn hóa Đình làng vùng đất Tổ - Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch.
- Cổ vật Phú Thọ - Nxb Văn hóa Thông tin năm 2006.
- Đi tìm dấu tích Kinh đô Văn Lang - Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Phú Thọ xuất bản năm 2007.
- Tín ngưỡng Thờ cúng Hùng Vương (chủ biên) - Hội Unesco xuất bản năm 2015.
*
* *
Trong đám bạn bè đồng trang lứa hay tụ bạ loanh quanh ở Phú Thọ của Tuấn râu, tôi là đứa em út ít nhất. Nhưng có lẽ do tôi vướng vào tý chút nghiệp viết lách, nên tôi và anh thường đoảng qua nhau chuyện trò “không đầu cuối” những chuyện chợt gặp - những chuyện kiểu “giữa đường thấy chuyện bất bình...” đâu đó. Anh trực ngôn, trực tính rất đàn ông. Nhiều khi tôi đùa anh: này hiệp sĩ, “một mình chống lại mafia” là không ổn đâu đấy. Anh cười, vuốt râu, đôi khi thốt lên: bực bỏ mẹ, mình không thể thờ ơ được...
Nguyễn Anh Tuấn là người tốt, là một “cổ vật sống quý hiếm”. Đã vài năm nay, “tự dưng” rất nhiều học sinh phổ thông chán học, ghét học Lịch sử nói riêng, ít quan tâm - tìm hiểu những vấn đề về Lịch sử nói chung, thì Tuấn râu càng là một Người Yêu Sử đáng trân trọng. Con người anh - tôi nghĩ - đã vận vào một phần nghề nghiệp của anh: phát hiện, bảo quản, giải mã cổ vật và phân tích lịch sử qua hiện tượng, hiện vật. Hiếm có một cơ quan quản lý Nhà nước nào lại có một cán bộ hoạt náo, bản lĩnh - như một nghệ sỹ hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật thực thụ. Hiếm có một cán bộ - công chức Nhà nước nào lại “được phép” có một bộ râu đẹp mà ngang tàng, đẹp mà già cả như vậy. Nhắc đến Tuấn râu - tôi nghĩ - là nhắc đến một Người tốt, một Tiếng tốt. Tôi chợt nhớ và muốn liên hệ anh với một dụ ngôn có tính giáo dục cao trong các truyện về đề tài tôn giáo mà tôi đã đọc lâu lâu. Truyện về sự cách nhau và mất nhau, rằng: Một ngày kia Lửa, Nước và Tiếng tốt đi chơi. Họ quy ước, nếu lạc nhau thì tìm qua đặc tính của nhau. Lửa nói: hãy tìm tôi ở nơi có khói. Nước nói: tìm tôi ở nơi có bùn. Tiếng tốt nói: các bạn đã mất tôi thì không bao giờ tìm lại được.
Tôi nhớ, tháng 4 năm 2010 với trách nhiệm là một thành viên của Hội đồng VHNT của Hội VHNT tỉnh, tôi đã phải đọc kỹ tập sách của Nguyễn Anh Tuấn: Nghiên cứu văn hóa đình làng vùng đất Tổ để xét trao giải thưởng VHNT 5 năm 2005 - 2010. Và tôi đã bỏ phiếu tín nhiệm tác phẩm nghiên cứu nghệ thuật kiến trúc này vào Giải thưởng Hùng Vương. Bây giờ đọc lại lời nhận xét trong lá phiếu còn photo lưu giữ, tôi vẫn thấy không cần phải thêm bớt gì. 5 năm trước tôi đã viết: Đây là công trình nghiên cứu nghiêm túc, kỹ lưỡng, khoa học và xác đáng. Đây là công trình đầu tiên có độ tin cậy cao về đình làng Phú Thọ, mà trước đó chưa có ai nghiên cứu thấu đáo. Tác giả là nhà khoa học lịch sử và khảo cổ, nên “các bước đi” của tập sách khoa học đã được anh trình bày sáng rõ, thật chuẩn mực. Cùng với các tập sách trước (các nghiên cứu về Trống Đồng, về các nền văn hóa Gò Mun, Sơn Vi, Phùng Nguyên) đến tập sách này, sẽ là cả một “bộ hồ sơ - tư liệu” quý giá dành để tham khảo học tập và nghiên cứu cho những ai có nhu cầu học hỏi văn hóa - Tập sách nghiên cứu được viết bởi một văn phong mạch lạc, có dụng công. Đôi khi còn biểu lộ cả tư duy xã hội và quan điểm cá nhân tác giả một cách đầy trách nhiệm trước các biển đổi lạ đi của văn hóa... Đáng khâm phục và trân trọng công trình khoa học này.
Lại nhớ, có thể do tính quảng giao, do tính ưa sáng tạo và phát kiến, do tính thích quan sát và phân tích... mà tôi đã “chập vào” Nguyễn Anh Tuấn từ dạo Hội VHNT tỉnh Vĩnh Phú chuẩn bị Đại hội năm 1995 (lần cuối trước khi chia tách tỉnh). Dạo đó, nhà tôi bên đường Hùng Vương, quãng gần trụ sở UBND phường Thọ Sơn, luôn là “điểm đến” của nhiều bạn bè văn chương. Những văn nghệ sĩ “hợp cạ” với tôi luôn gặp nhau: Hoàng Tá, Nguyễn Công Dương, Võ Huy Cát, Quang Thái, Hoàng Gia Vinh, Nguyễn Cảnh Tuấn, Nguyễn Lưu, Lê Duy Ngoạn, Trần Dư, Nguyễn Hưng Hải, Thiện Kế, Nguyễn Anh Tuấn, Đỗ Dũng và một số người khác. Trong một buổi ngay trước Đại hội năm ấy, bọn tôi ngẫu hứng tụ bạ bia bọt và “hạ quyết tâm”: lần này phải có đại diện cánh trẻ vào BCH mới đi chứ, cứ toàn các bác già mãi thế à. Thế là Trần Dư, Hoàng Tá, Nguyễn Hưng Hải, Nguyễn Anh Tuấn và tôi là “tốp đầu” hăng hái nhất, vô tư vui vẻ để ủng hộ các bạn Đỗ Dũng, Nguyễn Hưng Hải vào BCH. Kết quả Đại hội sau đấy đúng như vậy. Lần đầu tiên, BCH Hội VHNT tỉnh Vĩnh Phú qua các thời kỳ đến nay đã có các tác giả trẻ đại diện cho một lực lượng sáng tác đầy triển vọng.
Gần đây, Nguyễn Anh Tuấn được tham gia đoàn công tác của tỉnh (cùng với các tỉnh - thành và bộ, ngành TW hợp thành Đoàn công tác số 15) ra thăm cán bộ chiến sỹ làm nhiệm vụ trên các đảo ngoài quần đảo Trường Sa. Tôi đã nghe kể và xem tư liệu nhiều về không gian sinh tồn cùng các điều kiện công tác của cán bộ chiến sỹ ta. Nhưng qua những lời kể và tâm tư của Tuấn về biển đảo, anh đã cung cấp cho tôi một hình dung mới, một cách nhìn mới biệt lập mà thân thiện, bão giông mà ấm áp của tình người tình đất đảo khơi. Tôi vô cùng cảm động nhận ra một tấm lòng yêu nước mình theo cách riêng của Tuấn. Trên đường từ đảo khơi trở về đất liền mọi người trên tầu được phát biểu cảm tưởng và đóng góp ý kiến cho Bộ đội Hải quân, cho Đảng - Nhà nước về những vấn đề biển - đảo. Nguyễn Anh Tuấn có 5 góp ý - kiến nghị, nhưng ngay vấn đề thứ nhất đã khiến Ban lãnh đạo đoàn công tác và Ban chỉ huy tàu Hải quân đánh giá cao nhất. Anh đề nghị: từ nay, tất cả ngôn ngữ - chữ viết thể hiện trên tất cả các hiện vật, các văn bia, các biểu ngữ... được viết - vẽ, khắc - tạc nơi công cộng hay trong các cơ quan - đơn vị, trong các đình - chùa ngoài đảo, đều phải biểu đạt bằng chữ quốc ngữ thuần Việt. Chữ Việt, tiếng Việt ngoài biển - đảo là một biểu lộ sức sống và chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam - dân tộc Việt Nam.
Tuấn râu quảng giao, có quan hệ sâu - rộng với nhiều đồng nghiệp, bạn bè ở Thủ đô, ở tỉnh nhà và các vùng miền khác trên cả nước. Có thể do anh là người làm công tác nghiên cứu Khoa học Xã hội và Nhân văn thì phải thế. Nhưng không phải người làm công tác khoa học nào (kể cả ở lĩnh vực của các văn nghệ sỹ - trí thức khác), cũng có được mối quan tâm - ràng buộc thân tình - chí tình mau mắn như vậy.
Trong tình cảm của bạn bè, đồng nghiệp cả ở Hà Nội và địa phương, Tuấn râu luôn cần là có mặt, luôn không thấy khi không cần ở đâu đấy, ở việc nào đấy. Với tôi, thoạt trông Tuấn râu tưởng là người phong trần, nhưng thực ra - hơn thế - anh là người có phong thái, rất có phong thái. Bây giờ, mỗi khi vui vẻ ào ào hoặc chào hỏi xã giao, người ta hay gọi nhau, tán nhau bằng những danh xưng quý trọng xưa cũ. Riêng tôi, quả thật tôi rất quý bạn, tôn trọng bạn mà muốn gọi Tuấn râu - Tiến sĩ Nguyễn Anh Tuấn bằng những mỹ từ của người xưa trọng nhau (và chỉ có thế) mới rõ lên được nội hàm - nội dung biểu đạt: Tuấn Trượng Phu, Tuấn Tiên Sinh.
K.N.Đ