Tại hội nghị lần thứ 11 của Ủy ban Liên Chính phủ Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) về Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể đã họp tại thành phố Adis Abebas thuộc quốc gia Ethiopia ngày 1/12/ 2016, với sự thống nhất của toàn thể Hội nghị. Ủy ban đã chính thức ra nghị quyết công nhận “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của Việt Nam là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại” bởi giá trị nhân văn và sức sống trường tồn cùng sự lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng người Việt của di sản.
Có thể tìm thấy tính nhân văn trong những nét đặc trưng của Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ với một số nội dung sau đây: Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ là một hình thức thờ cúng người Mẹ thiên nhiên hóa thân ở các miền trời, sông nước, rừng núi được hình thành trên nền tảng của chế độ nguyên thủy Mẫu hệ (người Mẹ là chủ trong công xã nguyên thủy) đã tạo nên tín ngưỡng nguyên thủy thờ Nữ thần. Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam là một tín ngưỡng bản địa mang tính nhân văn sâu sắc, lấy việc tôn thờ Mẫu (Mẹ) làm thần tượng với các quyền năng vô biên, bảo trợ và che chở cho con người trong buổi bình minh của lịch sử hình thành xã hội con người và quốc gia dân tộc. Đó là tín ngưỡng, mà ở đó đã được giới tính hoá mang khuôn hình của người Mẹ, là nơi mà ở đó người phụ nữ Việt Nam đã được Thần Thánh hóa thành nhân vật siêu nhân để gửi gắm những ước vọng giải thoát của mình khỏi những thành kiến, ràng buộc của xã hội phụ hệ mà ở đó người phụ nữ mất vai trò làm chủ trong xã hội thị tộc.
Tính nhân văn của Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ ở miền Bắc được bắt nguồn từ tục thờ Nữ thần có nguồn gốc xa xưa từ thời tiền sử qua sơ sử và tới thời phong kiến là một số Nữ thần đã được cung đình hoá và thần thánh hoá để thành các Mẫu thần tương ứng từ thế kỷ XV trở về trước với việc phong thần của nhà nước phong kiến, hình thức thờ Mẫu thần với các danh xưng như: Quốc mẫu, Vương mẫu, Thánh Mẫu như hiện tượng thờ Mẫu Âu Cơ, Quốc Mẫu Tây Thiên, Mẹ Thánh Gióng, Tứ vị Thánh nương, Đinh Triều Quốc Mẫu... Từ khoảng thế kỷ XV trở đi, thì hình thức thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ được định hình và phát triển mạnh, đây cũng là thời kỳ xuất hiện các nhân vật dân gian như Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Mẫu Địa, Cô Đôi Thượng Ngàn... với các nghi thức một phần ảnh hưởng từ Đạo giáo.
Không gian để thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu trước hết phải có phủ thờ Mẫu (Tam phủ hoặc Tứ phủ). Người đứng ra thực hiện nghi lễ như lên đồng phải là người có “căn số”. Sau đó, cần phải có người hát văn và dàn nhạc dân gian (ngũ âm hoặc bát âm) kèm theo người hầu “nâng khăn sửa túi” sửa soạn mũ áo, xiêm y cho thanh đồng. Khi hương đã thắp lên, thanh đồng được phủ một tấm vải trên đầu sẽ làm các động tác và hất khăn ra phía sau. Điều bắt buộc là trước điện thờ phải có gương để thanh đồng nhìn bóng mình trong gương mới hầu được nên còn gọi là hầu bóng.
Tại các điện thờ Thánh Mẫu, nghi thức thờ cúng hàng ngày do các thủ nhang thực hiện. Tính nhân văn trong Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ còn được thể hiện qua việc thực hành nghi lễ lên đồng với những hình thức diễn xướng dân gian như trang phục, âm nhạc, hát chầu văn, múa, diễn xướng dân gian trong khi lên đồng. Ý nghĩa nhân văn của nghi lễ lên đồng chính là đáp ứng nhu cầu và khát vọng của đời sống thường nhật của con người như cầu sức khỏe, cầu bình an, cầu làm ăn phát đạt v.v... Thực hành Tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam phủ của người Việt thể hiện truyền thống yêu nước, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn; Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Điều này được biểu hiện cụ thể qua hệ thống các vị thần trong điện thần Tam phủ (khoảng 70 vị thần), trong đó có nhiều vị vốn là những nhân vật lịch sử, có công trong các cuộc chống giặc ngoại xâm, bảo vệ giang sơn bờ cõi được nhân dân thần thánh hóa như Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Xí với triết lý “Sinh vi tướng, tử vi Thần”. Khi sống họ là những người có tài, có đức, góp phần vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước, bảo vệ người dân, khi mất hiển linh là Thánh, là chỗ dựa tinh thần, thể hiện ý thức về cội nguồn dân tộc, giáo dục thế hệ trẻ về tinh thần yêu nước. Tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam phủ của người Việt rất cởi mở, nên mọi người đều có thể tham gia, không phân biệt xu hướng chính trị, tôn giáo, tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp. Người Việt tôn thờ các vị Thánh Mẫu và các vị thánh bản địa, đồng thời tôn trọng và tiếp nhận các vị thần, các yếu tố văn hóa của một số các dân tộc thiểu số. Trong thần điện có các vị thánh Mẫu Thượng Ngàn, các vị Quan, các Chầu, các Cô thuộc miền rừng núi, nơi cư trú tập trung của các dân tộc thiểu số như người Mường, Tày, Nùng, Dao. Thể hiện sự giao lưu văn hóa, mối quan hệ bình đẳng, gắn bó mật thiết giữa các dân tộc ở Việt Nam.
Tính nhân văn được thể hiện trong nghi lễ lên đồng là trình diễn dưới hình thức diễn xướng dân gian, thể hiện đức tin về sự xuất, nhập của các vị thần trong điện thờ của Tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam phủ. Các giá đồng bao gồm hát văn, trang phục, múa thiêng được kết hợp một cách hài hòa, thể hiện sự giáng đồng của các vị thánh mang tính tâm linh. Những người thực hành tin rằng, bằng hình thức diễn xướng này, họ có thể giao tiếp được với các đấng thần linh để gửi gắm, biểu đạt những mong muốn, khát vọng của mình thông qua các thầy đồng - người đóng vai trò trung gian giữa con người và các đấng thần linh mang đậm yếu tố shaman giáo, giống như ở nhiều quốc gia trên thế giới như: Hàn Quốc, Mông Cổ, Uzbekistan, Braxin, Zimbabwe...
Tính nhân văn còn được biểu hiện qua nghệ thuật Hát văn (hay còn gọi là chầu văn hay hát bóng) là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền của người Việt. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng thờ Mẫu và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam có xuất xứ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Lễ vật trong mỗi vấn hầu trước kia thường đơn giản. Vật phẩm cơ bản gồm xôi, thịt, hoa quả, trầu, cau, rượu, thuốc, vàng mã,... Ngày nay, lễ vật ngày càng phong phú, gồm cả những sản phẩm hàng hóa công nghiệp, thực phẩm đương thời, đắt tiền, dùng trong cả lễ mặn và lễ chay.
Tính nhân văn bao trùm trong thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ để cầu sức khỏe, may mắn, hạnh phúc, thể hiện khát vọng trong cuộc sống thường ngày, hướng con người đến lòng từ bi bác ái làm nền tảng cho những nguyên tắc ứng xử giữa người với người. Thờ cúng Thánh Mẫu, biểu tượng người mẹ tối linh góp phần đề cao giá trị và lòng biết ơn công lao của người phụ nữ trong đời sống gia đình và xã hội người Việt Nam. Bên cạnh đó, tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ cũng là một phương thức nhằm lưu giữ những giá trị của lịch sử, di sản văn hóa và bản sắc văn hóa các dân tộc sinh sống trên dải đất Việt Nam.
Giống như hát Xoan Phú Thọ, hát văn (hay hát chầu văn) là lối hát nghi lễ trước các cửa đền, cửa phủ. Có nhiều hình thức hát khác nhau gồm: hát thờ, hát cửa đền, hát hầu, hát thi. Nhịp điệu và tiết tấu có chậm, vừa và nhanh. Bên cạnh những làn điệu có tiết tấu rõ ràng, tính chất âm nhạc trong sáng, đậm nét dân ca đồng bằng Bắc Bộ. Trong nghi lễ chầu văn của người Việt, các hình thức biểu đạt, động tác múa, âm nhạc và lời hát văn đều mang dấu ấn lịch sử, ghi lại sự tích và ca ngợi công đức của những nhân vật lịch sử có công với dân, với nước. Về giá trị nhân văn, nghi lễ chầu văn của người Việt là tín ngưỡng bản địa, tích hợp các hình thức văn hoá dân gian khác nhau. Tín ngưỡng này vừa bảo tồn các giá trị truyền thống như “Uống nước nhớ nguồn”; “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, vừa được cộng đồng tái tạo, tích hợp các giá trị văn hoá mới, để thích ứng với điều kiện cuộc sống hiện đại, vì vậy nó có sức hấp dẫn cao đối với mọi người, nhất là những người theo tín ngưỡng Tam phủ.
Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ ở nước ta đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm và đang được phục hồi và hiện nay đã trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại (2016). Tuy vậy, những nghệ nhân dân gian còn lưu giữ di sản này không nhiều và phần lớn đã cao tuổi, sức yếu nhưng kinh nghiệm, vốn kiến thức và kỹ năng thực hành của họ chưa được khai thác triệt để, kịp thời. Tình trạng thương mại hoá, lợi dụng tín ngưỡng để “buôn thần bán thánh; mang tính chất “mê tín dị đoan” cùng với hiện tượng “đồng đua”, mua sắm nhiều lễ vật đắt tiền, đốt vàng mã nhiều gây tốn kém tiền bạc và làm ô nhiễm môi trường còn tồn tại khá phổ biến khiến nghi lễ này có nguy cơ bị biến dạng, đòi hỏi ngành văn hóa và các ngành liên quan tăng cường quản lý và hướng dẫn để việc thực hành tín ngưỡng được lành mạnh, đúng với tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của dân tộc. Qua đó, khơi dậy các yếu tố nhân văn để góp phần bảo tồn và phát huy giá trị tích cực của Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ - Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Đ.Đ.T