Trong hàng loạt các tác phẩm của văn xuôi Việt Nam hiện đại, hẳn độc giả không quên và ấn tượng đối với các chi tiết trong tác phẩm. Những chi tiết vốn được ví như những “sợi dây tóc” phát sáng của bóng điện trong toàn bộ tác phẩm. Trong đó, kết thúc mỗi tác phẩm, các chi tiết, hình ảnh lại lóe lên, lan tỏa và tạo sự suy ngẫm dài lâu đối với độc giả. Mỗi cách kết thúc bằng các chi tiết, hình ảnh lại góp phần tạo ra những giá trị quan trọng đối với tác phẩm. Có thể nó tạo sự ám ảnh, những dự cảm về quy luật xã hội, về tương lai cuộc sống. Có thể là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về cuộc sống và con người... Bởi vậy, khai thác chi tiết kết thúc trong tác phẩm văn xuôi giữ vai trò quan trọng và hiệu quả khi đi khám phá chiều sâu tư tưởng, thông điệp của nhà văn, sức sống của tác phẩm và tài năng nghệ thuật của nhà văn.
Hẳn độc giả không quên kiệt tác Chí Phèo của nhà văn Nam Cao được đưa vào chương trình Ngữ văn 11. Ở tác phẩm này, khi Chí Phèo rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền sống, quyền làm người, chết trên ngưỡng cửa trở lại làm người lương thiện, Nam Cao đã có dụng ý kết thúc tác phẩm bằng một chi tiết đầy ám ảnh qua câu văn: “Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người qua lại...” (Chí Phèo). Nếu chỉ đọc qua, có người sẽ chỉ cảm nhận rằng đây là hình ảnh chiếc lò gạch cũ ở làng Vũ Đại, nơi “khai sinh” ra Chí Phèo nhưng nếu đặt hình ảnh chiếc lò gạch ấy trong mối quan hệ với chi tiết này đầu tác phẩm và diễn biến của truyện thì đây lại là một chi tiết nghệ thuật có giá trị. Giá trị ấy được thể hiện ở hai mặt cả về nội dung và nghệ thuật. Về nội dung, chi tiết này là một ám ảnh lớn về quy luật xã hội luẩn quẩn, bế tắc ở làng Vũ Đại khi mà Chí Phèo chết đi, thị Nở mới nghĩ: “Nói dại, nếu mình chửa, bây giờ hắn chết rồi, thì làm thế nào?”. Phải chăng, trong xã hội vô nhân đạo ấy, vẫn còn đó hiện tượng Chí Phèo. Bởi Chí Phèo bố chết, rất có thể sẽ lại có một Chí Phèo con ra đời, thị Nở lại đem nó bỏ ở một cái lò gạch cũ nào đó phía đầu làng và nó lại lặp lại cuộc đời của Chí Phèo bố. Và hơn nữa, Bá Kiến chết đi, sẽ có Lí Cường lên thay lại càng tàn ác, gian xảo hơn theo kiểu “Tre già măng mọc”. Về mặt nghệ thuật, sự lặp lại chi tiết chiếc lò gạch cũ không tạo nên sự đơn điệu đối với tác phẩm mà lại là sự sáng tạo của Nam Cao khi nhà văn sử dụng hiệu quả hình thức kết cấu truyện theo kiểu vòng tròn, đầu cuối tương ứng. Bởi vậy, mở trang truyện đầu tiên, độc giả sẽ thấy Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra và khi khép lại, người đọc trăn trở, day dứt đầy ám ảnh về một cái vòng quay xã hội không lối thoát, sự lặp lại của bức tranh hiện thực đầy tăm tối của xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
Có những tác phẩm, chi tiết kết thúc chỉ được gợi lên qua lời kể, qua suy nghĩ, tưởng tượng của nhân vật nhưng lại là những dự cảm lớn về đổi thay cuộc sống và số phận. Điều này, nhà văn Kim Lân đã thể hiện khá thành công trong tác phẩm Vợ nhặt. Trong bối cảnh nạn đói 1945, giữa không khí vẩn đục xú uế, chết chóc, hoang tàn, bữa cơm đón nàng dâu mới của gia đình bà cụ Tứ, Tràng thật thảm hại và đầy sức ám ảnh. Cảm xúc tủi hờn, buồn thương xen lẫn nhau, vị chát đắng của miếng cháo cám hòa vào tiếng trống thúc thuế ngoài đình vọng về khiến cho không khí của bữa cơm như chùng xuống, làm cho niềm vui trong gia đình bà cụ Tứ dường như không cất cánh lên được. Sau khi nghe câu chuyện của thị kể “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy”, qua nhiều câu hỏi và được người vợ trả lời chóng vánh, “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới...”. Và đó chính là hai hình ảnh xuất hiện trong ý nghĩ của Tràng về hiện thực cuộc sống lúc bấy giờ. Tràng mường tượng ra một cảnh với hai chi tiết dường như đối lập nhau “đám người đói và lá cờ đỏ”. Một hình ảnh là hiện hữu của nạn đói, của chết chóc, một hình ảnh là con đường đấu tranh để giải thoát. Hai hình ảnh tuy chưa xuất hiện trước mắt Tràng, chỉ tồn tại trong ý nghĩ, trong tưởng tượng nhưng có sức ám ảnh lớn trong tâm trí của Tràng. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới đã mở ra một dự cảm về một tương lai không xa của cách mạng, đó là con đường đấu tranh để giải thoát số phận con người khỏi thảm cảnh đói, là con đường để đổi đời cho con người. Đây là chi tiết tỏa sáng trong toàn bộ tác phẩm Vợ nhặt, góp phần thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc và mới mẻ của nhà văn Kim Lân. Nằm trong trào lưu của dòng văn học hiện thực cách mạng, Kim Lân đã mở con đường đi cho nhân vật mặc dù chưa định hình rõ nét, mới chỉ là dự cảm nhưng nó đã gợi mở một tương lai tươi sáng, khát vọng đổi đời của người lao động nghèo khổ.
Một trong những hiệu quả của chi tiết kết thúc tác phẩm còn là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về cái đẹp, về con người và cuộc sống. Đặt ở cuối tác phẩm những chi tiết hết sức tự nhiên, không gượng ép nhưng lại có sức ngân tỏa lớn đối với người đọc. Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, ở phần kết thúc là một đoạn văn miêu tả của nghệ sĩ Phùng về tấm ảnh đen trắng chụp được và được treo, được sử dụng nhiều năm sau đó: “Quái lạ, tuy là tấm ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch,...hòa lẫn trong đám đông”. Chi tiết tấm ảnh đen trắng cuối tác phẩm là một hình ảnh có nhiều sức gợi. Đây là bức ảnh “Trưởng phòng rất bằng lòng về tôi” theo lời kể của Phùng, là kết quả của quá trình rung động, tìm tòi, khám phá của Phùng về nghệ thuật và cuộc sống con người. Về mặt nghệ thuật, đây là một sáng tạo trong kết cấu truyện của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Đó là kiểu kết cấu vòng tròn. Đầu truyện là việc Phùng đi “săn” ảnh, cuối truyện là kết quả lao động, là những giây phút chiêm nghiệm về thành quả đó qua cử chỉ “mỗi lần ngắm kĩ...”, “nếu nhìn lâu hơn...” của nghệ sĩ Phùng. Bức ảnh thể hiện quan niệm của Nguyễn Minh Châu về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Nếu “cái màu hồng hồng của ánh sương mai” kia biểu tượng cho cái đẹp của nghệ thuật vô cùng lãng mạn thì “người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch” sẽ là hiện thân cho hiện thực cuộc đời với nhiều chua chát, đắng cay, lắm nỗi truân chuyên nhưng bên trong đó lại tiềm ẩn những vẻ đẹp bình dị, nhân văn. Từ đó, nhà văn Nguyễn Minh Châu thể hiện quan niệm về mối quan hệ không tách rời giữa nghệ thuật với cuộc sống. Cái đẹp dù có hoàn mĩ, lãng mạn đến đâu cũng bắt nguồn từ cuộc sống. Bên ngoài cái vẻ xù xì, góc cạnh của cuộc sống, của con người sẽ là những vẻ đẹp khuất lấp mà người nghệ sĩ phải tìm kiếm. Thông điệp của Nguyễn Minh Châu được gợi lên từ bức ảnh. Người nghệ sĩ phải có cách nhìn đa chiều về con người, cuộc đời và nghệ thuật, phải luôn nuôi khát vọng tìm kiếm, phát hiện, tôn vinh những vẻ đẹp còn tiềm ẩn trong cuộc sống và tâm hồn con người. Nói như lời phát biểu của nhà văn Nguyễn Minh Châu khi trả lời phỏng vấn báo Văn nghệ đầu xuân năm 1987: “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người. Mỗi tác phẩm văn học chỉ là một lát cắt, một tờ biên bản của một chặng đời sống con người ta, trên con đường dài dằng dặc đi đến cõi hoàn thiện”.
Nhà văn Aimatov đã từng nhận định: “Một tác phẩm chân chính không bao giờ kết thúc ở trang cuối cùng”. Đã có lần, tác giả Bùi Việt Thắng khẳng định: “Điều quan trọng hơn cả là sau mỗi cách kết thúc, tác giả phải gieo vào lòng người đọc những nhận thức sâu sắc về quy luật đời sống và những dự cảm về tương lai, về cái đẹp tất yếu sẽ chiến thắng”. Những chi tiết kết thúc trong các tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại đã góp phần làm tỏa sáng, tạo sức lan tỏa và khẳng định cái tâm, cái tài của nhà văn. Và hơn thế nữa, những chi tiết kết thúc đã thể hiện sâu sắc quy luật trong sáng tạo, tiếp nhận và cảm thụ những giá trị của tác phẩm văn học về tính chất “không có trang cuối cùng”, về sự đồng sáng tạo của độc giả với nhà văn.
N.T.L