Nơi in dấu chân Bác
Ngược dòng Lô giang, chúng tôi dừng chân ở xã Yên Kiện (Đoan Hùng - Phú Thọ), tìm về những dòng tư liệu lịch sử được ghi chép trong đền thờ, nhà lưu niệm Bác Hồ nơi đây. Vào những ngày cuối năm 1946, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ bước vào giai đoạn cam go, trong hành trình rời Hà Nội lên Việt Bắc lập căn cứ địa kháng chiến, Bác đã chọn Phú Thọ là nơi dừng chân. Khi ấy, Phú Thọ là vùng rừng núi hiểm trở, cây cối rậm rạp, nên rất thuận tiện cho việc hoạt động bí mật. Vì thế, vào đầu tháng 12-1946, đồng chí Trần Đăng Ninh, phụ trách đội công tác Trung ương về Phú Thọ trực tiếp giao nhiệm vụ cho đồng chí Nguyễn Đức Thắng, Bí thư Tỉnh ủy chuẩn bị sẵn một số địa điểm để Bác và cơ quan Trung ương đến ở và làm việc khi cần thiết.
Thi hành chỉ thị cấp trên, Tỉnh ủy Phú Thọ đã khẩn trương chuẩn bị. Mọi địa điểm đều được đồng chí Trần Đăng Ninh và các đồng chí lãnh đạo tỉnh Phú Thọ xem xét cẩn thận và quyết định chọn 3 xã ở 3 huyện là xã Cổ Tiết, huyện Tam Nông; xã Chu Hóa, huyện Lâm Thao (nay thuộc thành phố Việt Trì) và xã Yên Kiện, huyện Đoan Hùng. Cả 3 xã này đều là nơi có phong trào cách mạng sớm, chính quyền và các đoàn thể quần chúng vững, lại nằm gần quốc lộ, thuận tiện giao thông nhưng lại kín đáo, đảm bảo được bí mật. Trên chặng đường di chuyển, ngày 30 tháng 3 năm 1947, Bác đã dừng chân tại xã Yên Kiện (huyện Đoan Hùng), Bác đã lưu lại và làm việc tại đây trong ba ngày 30, 31 tháng 3 và ngày 01 tháng 4 năm 1947 tại nhà ông Nguyễn Hữu Đa - Chủ nhiệm xã bộ Việt Minh xã Yên Kiện. Trong khoảng thời gian ở tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Chính phủ, Nghị viện, nhân dân Pháp và các nước dân chủ trên thế giới, đồng thời Bác đã ký hai sắc lệnh: Sắc lệnh số 39, hủy bỏ tất cả tem trước bạ và giấy tín chỉ đã lưu hành trước ngày 19/12/1946, ấn định cách thức thu thuế và tem trước bạ mới; Sắc lệnh số 40, cho phép một kiều dân Trung Hoa nhập quốc tịch Việt Nam. Mỗi khi về thăm Đoan Hùng, chúng tôi cảm nhận như còn đâu đây bóng hình Bác Hồ muôn vàn kính yêu.
Tượng đài bất tử bên dòng Lô
Mỗi khi đến thăm xứ sở bưởi Đoan Hùng bên dòng Lô giang, du khách đều đến thăm Tượng đài Chiến thắng sông Lô, một khu di tích lịch sử văn hóa gồm tượng đài, nhà trưng bày và các hiện vật, hầm hào trên Gò Đồn thuộc khu Hưng Tiến, thị trấn Đoan Hùng. Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp còn ghi nhớ mãi những chiến tích nơi dòng Lô anh hùng.
Với lòng yêu nước, ý chí, sự đoàn kết, quân và dân ta đã cắt đứt hướng tấn công với âm mưu thâm độc của thực dân Pháp trên con đường lên chiến khu Việt Bắc. Nơi đây, dòng Lô giang xanh thẳm đã trở thành bản trường ca lịch sử về ý chí và tinh thần dân tộc. Chiến thắng sông Lô đã trở thành biểu tượng sức mạnh và niềm tin của quân và dân ta nơi chiến khu Việt Bắc. Đứng trên Gò Đồn cao, khung cảnh bốn phía là một không gian bốn bề thoáng đãng và rợn ngợp sắc xanh. Phía trước là dòng sông Lô xanh thẳm chảy hiền hòa, cây phía sau là cây cầu sông Lô vắt ngang dòng sông, xa xa là những xóm làng, những vườn bưởi đang độ chín vàng.
Mỗi bức tượng, mỗi tư thế đứng của quần thể tượng đều chạm khắc một vẻ đẹp và thể hiện sức mạnh của tinh thần yêu nước. Đó là tư thế đứng hiên ngang, tay phải giơ cao khẩu súng, tay trái giơ về phía trước thể hiện tư thế chiến thắng của người chiến sỹ sông Lô, là dáng đứng thẳng, hai tay nắm chắc khẩu súng trường, tầm mắt nhìn ra xa dòng sông Lô trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, là nữ du kích người dân tộc, tay cầm chắc gậy dài, mặt hướng thẳng về phía
trước. Tất cả tạo nên một quần thể tượng đài vững chãi, ngời lên sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, sức mạnh của quân và dân trong kháng chiến. Phía dưới chân Tượng đài là những đường hầm, hào dọc ngang, là nhà trưng bày với những hình ảnh còn vẹn nguyên những tháng ngày quân và dân Việt Bắc vùng lên chặn đường tấn công của giặc Pháp, những khẩu pháo được lưu giữ như chứng tích của một thời oanh liệt. Rực vàng mùa bưởi chín
Nhắc đến Đoan Hùng, vùng đất nằm bên dòng Lô giang hiền hòa, ai ai cũng nhắc đến giống bưởi quý đã được trồng, giữ giống hằng trăm năm nay, là nơi hội tụ giống quả ngọt của vùng đất Tổ Vua Hùng. Các địa danh của vùng đất Đoan Hùng như Chí Đám, Bằng Luân, Khả Lĩnh, Phúc Lai, Quế Lâm, Yên Kiện, Phương Trung là những làng trồng nhiều bưởi nhất. Thuở xưa, ở xã Đại Minh, người ta vẫn kể cho nhau nghe rằng giống bưởi ở vùng đất này xưa kia được mang đi tiến vua. Hẳn là thứ bưởi vừa ngon, vừa quí. Quả đúng vậy, dọc sông Lô, về với đất Đoan Hùng, do thổ nhưỡng, khí hậu, giống bưởi này vẫn giữ được tiếng của nó dù
trải qua bao sự đổi thay của thời gian và lịch sử. Xưa kia ở Đoan Hùng, bưởi được trồng nhiều trong vườn nhà, trồng trên đồi hay ven sông. Người dân vùng này từ xa xưa vẫn tự hào về quê hương mình có giống bưởi quí mà khắp khu vực phía Bắc khó có vùng nào, đặc sản hoa trái nào sánh bằng.
Bưởi Đoan Hùng còn gắn với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tại chiến địa sông Lô lịch sử. Tại địa phận sông Lô chảy qua Đoan Hùng, người dân ở hai bên bờ sông Lô đã lấy những quả bưởi còn tươi đem sơn đen, xâu vào dây rồi thả xuống dòng sông Lô. Khi đến địa phận Đoan Hùng, nhìn thấy nhiều vật tròn đang chặn ngang đường tiến, kẻ thù tưởng đó là mai phục và ngư lôi của quân ta nên hỗn loạn và tháo chạy. Câu chuyện bưởi tham gia vào trận chiến sông Lô đến nay vẫn được các bậc cao niên trong làng kể lại cho con cháu nghe. Được
nghe, người dân thêm niềm tự hào về giống bưởi quý quê mình. Bưởi Đoan Hùng có những đặc điểm khác so với những giống bưởi quý khác trên cả nước. Quả bưởi Đoan Hùng nhỏ, thon tròn, vỏ mỏng, múi dày, tôm mọng nước. Khi thưởng thức, bưởi Đoan Hùng có vị thơm, vị ngọt thanh khiến cho du khách dù chỉ ăn một lần mà nhớ mãi. Mỗi khi mùa thu về, nắng như rưới ánh vàng xuống những vườn bưởi Đoan Hùng đang độ chín. Cả khu vườn ngả vàng, báo hiệu mùa thu hái bưởi đã về.
Trong tiết trời se lạnh của những ngày giữa mùa đông, về vùng đất bưởi, người dân nơi đây khuôn mặt rạng ngời và hiếu khách. Cái chân chất của những người nông dân vốn nặng lòng với cây bưởi từ bao đời nay được hiện lên trong nụ cười đon đả chào đón khách. Ngồi bên gốc bưởi quí, được chủ nhà hái trái bưởi căng mọng, bổ ra mời khách ăn. Cái vị ngọt mát của bưởi và tấm lòng thơm thảo của người dân nơi đây như hòa quyện làm dậy lên dư vị đồng quê chỉ có ở bên dòng Lô giang hiền hòa. Âm vang những bản trường ca Dòng Lô giang cứ lững lờ trôi theo năm tháng, cứ tỏa sắc xanh ngọc của màu nước bốn mùa dưới nắng chiều. Sông mang trong lòng nó bao sự kiện, bao câu chuyện về cuộc trường chinh, về đất và người nơi đây. Để rồi, từ dòng chảy ấy, từ những câu chuyện ấy, dòng sông đã đi vào những ca từ của những bản trường ca bất hủ. Đứng bên bờ sông Lô, bên Tượng đài Chiến thắng sông Lô sừng sững, hiên ngang, trong lòng chúng tôi như dậy lên những ca từ hùng tráng, vang vọng, những lời hát trữ tình về sông Lô. Sông Lô không lặp lại ở cảm hứng ở mỗi người nghệ sỹ khi họ đắm say rồi hòa mình vào dòng chảy của nó mà cất lên những ca từ ngọt ngào, sâu lắng. Mỗi khúc ca là một thiên trường
ca về dòng sông, về trang sử hào hùng nơi chiến khu Việt Bắc và cũng là những khoảng lặng trong cảm xúc về Lô giang. Văng vẳng đâu đây những ca từ mà nhạc sỹ Văn Cao gửi vào Trường ca sông Lô: “Sông Lô sóng ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u/Thu ru bến sóng vàng từng nhà mờ biếc chìm một màu khói thu/Sông Lô, sóng ngàn kháng chiến cháy bờ lau thưa đã tàn thôn trang/Ai qua bến nắng hồng lặng nhìn màu nước sông Lô xưa”. Vẻ đẹp đôi bờ, nơi có cảnh sắc vùng trung du thanh bình, yên ả được gợi lên trong dòng cảm xúc miên
man không dứt: “Dòng sông Lô trôi, dòng sông Lô trôi, mùa xuân tới nước băng qua ngàn, nước in ven bờ xanh ươm bóng tre, dòng sông Lô lướt trôi”.
Chiều cuối năm, dòng Lô vẫn xanh thẳm soi bóng tượng đài, soi bóng những vườn bưởi đang chín vàng. Có ai đó như đang cất lên ca khúc “Sông Lô chiều cuối năm” của nhạc sỹ Minh Quang: “Sông Lô chiều cuối năm, bất chợt gặp câu hát từ bến sông xưa vọng lại, ai về qua bến Bình Ca/Bâng khuâng chợt nhớ bao kỷ niệm năm tháng gần bên nhau, say trong hương rừng, ai về tắm nước dòng Lô...”. Dòng sông ấy ghi dấu mối tình của người lính chiến với cô gái xứ Tuyên để rồi, mỗi lần đến đây, nghe sông kể chuyện, nghe sông hát, ta như thả hồn mình trôi theo dòng Lô để tâm hồn miên man mãi không thôi: “Sông Lô chiều cuối năm, ai tìm về bên ai, ta tìm về bên em”. Tiết trời se sắt trong cái lạnh của mùa đông nhưng những ca từ vang lên dìu dặt như ấm áp trong tâm hồn. Dòng cảm hứng không bao giờ vơi cạn về Lô giang. Đó là những ca khúc mềm mại, tha thiết mà rất đỗi trữ tình như “Thành phố bên dòng Lô” của Tân Điều, “Hỏi sông” của Đinh Quang Minh, “Lời ru bên dòng Lô” của Vương Vình... và nhiều ca khúc khác như một dòng nhạc chảy mãi về sông Lô.
Về sông Lô chiều cuối năm để ngắm nhìn đôi bờ đang ngời lên sức sống, để nghe sông kể chuyện chiến công xưa, để nghe sông hát những bản trường ca bất tận. Sông Lô chảy từ nơi Việt Bắc đại ngàn, về nơi đây giữa rừng bưởi chín, về nơi đây nghe trong làn gió se lời ngàn xưa vọng lại...
N.T.L