icon menu
,  
icon menu
Trang chủ
Tin Tức - Sự kiện icon right
Phú Thọ hôm nay
Văn hóa - Xã hội
Kinh tế - KHCN
Hoạt động Hội
Đất Tổ Vua Hùng icon right
Tích xưa cội nguồn
Phú Thọ trong dòng chảy văn hóa
Check-in Phú Thọ
Media icon right
PODCAST
Video
Thư viện ảnh
INFOGRAPHIC, MEGASTORY
Văn học icon right
Truyện, tiểu thuyết
Thơ
Văn học nước ngoài
VHNT các dân tộc thiểu số
Phê bình - Giới thiệu icon right
Nghiên cứu
Tiếng nói văn nghệ sỹ
Tác giả - Tác phẩm
Sáng tạo và cống hiến
Chuyện làng văn nghệ
Nghệ thuật icon right
Mỹ thuật
Nhiếp ảnh
Âm nhạc - Múa
Sân khấu
Bút ký văn học icon right
Sắc màu cố đô Văn Lang
Ẩm thực
Du lịch
Rực rỡ vùng cao
Văn nghệ cấp huyện icon right
Hoạt động
Tác giả, tác phẩm tiêu biểu
Tin Tức - Sự kiện
Phú Thọ hôm nay
Văn hóa - Xã hội
Kinh tế - KHCN
Hoạt động Hội
Đất Tổ Vua Hùng
Tích xưa cội nguồn
Phú Thọ trong dòng chảy văn hóa
Check-in Phú Thọ
Media
PODCAST
Video
Thư viện ảnh
INFOGRAPHIC, MEGASTORY
Văn học
Truyện, tiểu thuyết
Thơ
Văn học nước ngoài
VHNT các dân tộc thiểu số
Phê bình - Giới thiệu
Nghiên cứu
Tiếng nói văn nghệ sỹ
Tác giả - Tác phẩm
Sáng tạo và cống hiến
Chuyện làng văn nghệ
Nghệ thuật
Mỹ thuật
Nhiếp ảnh
Âm nhạc - Múa
Sân khấu
Bút ký văn học
Sắc màu cố đô Văn Lang
Ẩm thực
Du lịch
Rực rỡ vùng cao
Văn nghệ cấp huyện
Hoạt động
Tác giả, tác phẩm tiêu biểu
    1. Trang chủ
    2. BÚT KÝ VĂN HỌC
    Chuyện về những nữ chiến sỹ Trường Sơn Đất Tổ năm xưa (Kỳ 2)
    Vi Văn Định - Nhóm phóng viên | 01/08/2024 10:25
    In trang

    (Kỳ 2)

     

    Sinh ra và lớn lên tại mảnh đất Văn Lang, Hạ Hòa, Phú Thọ, ngày 24/8/1973, trong không khí cả nước sục sôi lên đường giết giặc cứu nước chị Lê Thị Sâm viết đơn tình nguyện lên đường nhập ngũ. Chị được biên chế vào D95 - Sư đoàn 304B Quân khu Việt Bắc tại huyện Phú Bình - Bắc Thái. Huấn luyện ở đây 2 tháng, chị được cử đến đơn vị mới D3 - E31 - Đoàn 559 ở Quảng Bình (bến phà Long Đại). Tại đây huấn luyện 1 tháng sau đó được nhận nhiệm vụ làm liên lạc Tiểu đoàn. Tháng 12/1973 lại chuyển đơn vị về đội điều trị - Đoàn 559 vừa làm nhiệm vụ nấu cơm và hộ lý.

     

    Tháng 6/1974 đơn vị đã đào tạo tại chỗ 6 tháng để trở thành y tá. Khí thế cách mạng chuẩn bị cho chiến dịch mùa xuân đại thắng, đơn vị được điều động phục vụ thương bệnh binh các đơn vị chiến đấu tuyến trước. Lúc này, cả đơn vị liên tục di chuyển hành quân qua Đông Hà - Quảng Trị, Cồn Tiên dốc miếu, qua sông Thạch Hãn vào Huế, Đà Nẵng (ở huyện Hòa Vang 10 ngày) để tiếp quản dọn dẹp các cơ sở ta đã giải phóng. Ngày 26/4/1975 đến Nha Trang - Quy Nhơn đơn vị dừng lại tiếp nhận cấp cứu rất nhiều thương bệnh binh tuyến trước chuyển về. Sau đó từ ngày mùng 1 đến mùng 3/5/1975, toàn đơn vị nhận lệnh lên Buôn Mê Thuật. Tháng 6/1975 lại được lệnh quay về Khe Sanh, Lao Bảo - Quảng Trị. Lê Thị Sâm và một số đồng đội nữ được điều động bổ sung về bệnh xá Trung đoàn E531 - Sư đoàn F473 - Đoàn 559 để  mở đường Trường Sơn (Đường 14 B). Tháng 6/1977 đơn  vị di chuyển vào ấp Suối Đá - huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh. Hơn 1 năm sau, tháng 10/1978 Lê Thị Sâm hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc và được chuyển ngành về Trung tâm điều dưỡng người có công tỉnh Phú Thọ (khu 15, xã Hà Thạch, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ) và công tác ở đấy đến tháng 7/2008 nghỉ hưu theo chế độ Nhà nước.

    Nói về tình yêu của mình với thương binh nặng Nguyễn Văn Thắng (là chồng sau này), chị Lê Thị Sâm rưng rưng kể lại: Tháng 10/1978, khi về công tác tại Trung tâm điều dưỡng người có công tỉnh Phú Thọ, tôi gặp nhiều thương binh nặng với vô vàn hoàn cảnh thương tật khác nhau, trong đó có thương binh Nguyễn Văn Thắng, thương tật 91% cụt cả 2 chân quê ở phường Bến Gót, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ (bố mẹ đều là thương binh thời chống Pháp). Sau nhiều lần chăm sóc, gặp gỡ thương binh Nguyễn Văn Thắng tôi đã cảm thương, xót xa với hoàn cảnh của anh. Anh Thắng luôn có cử chỉ gần gũi với tôi, qua ánh mắt nụ cười tôi như thấy có điều gì ẩn giấu phía sau. Có một lần trong lúc thay băng cho anh Thắng, anh bị choáng và suýt ngã, tôi không ngần ngại ôm và đỡ anh xoa lên vết thương của anh. Mặc dù không nói gì nhưng tôi thấy được anh Thắng cảm động lắm. Hai giọt nước mắt lăn trên khóe mắt của anh. Tối hôm đó, tôi đẩy  xe lăn cho thương binh Nguyễn Văn Thắng đi ra ngoài hóng gió như bao ngày khác. Nhưng hôm nay có điều gì khác lạ, khi đến cuối dãy nhà điều dưỡng nhìn ánh trăng đầu tháng lấp ló sau rặng tre xanh bên làng, trong không gian tĩnh mịch lạ thường anh Thắng tự nhiên nắm lấy bàn tay tôi và nói: “Anh để ý đến em đã lâu nhưng anh ngại không dám nói vì anh đã mất cả 2 chân. Nếu em đồng ý lấy anh thì hỏi cưới luôn”. Bị bất ngờ tôi sững sờ. Sau phút định thần và tĩnh tâm lại, tôi khẽ nói: “Để em xem đã”. Tối hôm đó, sau khi chia tay suốt cả đêm tôi không tài nào ngủ được. Lòng tôi xáo trộn vừa vui mừng vừa lo lắng. Tôi nghĩ: Suốt bao năm tháng cống hiến tuổi thanh xuân ở chiến trường ác liệt, tôi chưa từng được ai ngỏ lời yêu thương, chân thành thẳng thắn đến thế. Rồi thì... nếu lấy anh Thắng làm chồng cuộc sống sau này với một thương binh nặng cụt cả 2 chân sẽ ra sao? Rồi con cái, nội ngoại 2 bên, đi lại về quê, công việc gia đình lúc nặng nhọc khó khăn cần người đàn ông trụ cột gia đình... Bao câu hỏi cứ giày vò làm cho tôi không tài nào chợp mắt. Sau nhiều đêm trăn trở, tôi thổ lộ với mẹ. Mẹ tôi khuyên: Tùy con. Mẹ rất thương con gái nhưng vẫn để cho con quyết định hạnh phúc của mình. Cậu ruột tôi thì một mực phản đối: Mày đến nỗi nào mà lấy chồng cụt cả 2 chân... Ngày tháng qua đi, công việc ở Khu điều dưỡng thương binh vẫn diễn ra như vậy. Dần được anh em đồng đội bạn bè tham gia ý kiến và có ý vun vén. Rồi những lần sau gặp gỡ, những cử chỉ, ánh mắt trao nhau tôi cảm thấy thương yêu anh Thắng nhiều hơn. Đúng ngày sinh nhật của tôi, anh rút một bông hoa hồng giấu sẵn trong ngực áo tặng tôi: “Chúc mừng sinh nhật em”. Tôi cảm động, hai giọt nước mắt tự nhiên lăn ra lúc nào không biết. Đây là lần đầu tiên có một chàng trai tặng hoa. Việc gì đến rồi sẽ đến. Tối hôm đó, khi ánh trăng lên và cũng tại cuối dãy nhà Khu điều dưỡng tôi đã trả lời đồng ý yêu anh. Anh cảm động lắm và ôm chầm lấy tôi và khóc - anh khóc như một đứa trẻ. Năm 1978 đám cưới của chúng tôi diễn ra tại cơ quan Khu điều dưỡng thương binh. Anh em bạn bè đồng đội và lãnh đạo Khu điều dưỡng đứng ra tổ chức đám cưới. Người góp đường, sữa... để làm bánh kẹo, người tặng cho chăn, cho màn,... ghép 2 giường 1 thành giường đôi. Khu điều dưỡng giành một gian tập thể cho vợ chồng tôi sinh hoạt. Vài tháng sau một số anh em còn cho vay số tiền ít ỏi của mình để gom góp vào, giúp vợ chồng tôi mua một máy kem làm đá bán. Chúng tôi nuôi lợn bằng cơm thừa canh cặn sau mỗi bữa ăn của nhà bếp. Cuộc sống khó khăn nhưng luôn tràn ngập sự yêu thương ấm áp. Hàng ngày anh ngồi xe lăn đi giao kem, giao đá để thêm thu nhập nuôi con. Tôi tranh thủ chăn nuôi tăng gia ngoài giờ để có đồng ra đồng vào. Năm 1983 nhờ tích cóp được một số vốn nhỏ nhoi, cộng thêm tiền vay của anh em đồng đội trong Khu điều dưỡng, vợ chồng tôi đã mua lại căn nhà cấp 4 cũ tại khu 4 - xã Phú Hộ (gần khu điều  dưỡng) để chuyển ra ở riêng.

     Ngày nay khu đất này đã được làm lại nhà mới khang trang và anh chị Thắng - Sâm đã có 3 con (2 gái, 1 trai) các cháu đều trưởng thành ngoan ngoãn công ăn việc làm ổn định, gia đình hạnh phúc. Năm 2002 do vết thương tái phát, sau 4 năm đưa chồng chạy chữa hết bệnh viện này đến bệnh viện khác mà không qua khỏi, năm 2006 anh Thắng đã mất vì vết  thương tái phát nên được hưởng chế độ liệt sỹ. 28 năm chung sống, 2 vợ chồng cựu chiến binh, thương binh Nguyễn Văn Thắng - Lê Thị Sâm đã vượt qua bao sóng gió cuộc đời để vun đắp tổ ấm hạnh phúc gia đình. Chị đã tần tảo nuôi chồng, nuôi con và chịu đựng bao lần trái gió trở trời, vết thương cũ tái phát, đau đớn vật vã, anh đập phá đồ đạc, thần kinh không ổn định anh chửi vợ, đánh con vì trong đầu anh vẫn còn mảnh kim khí do mìn nổ không thể gắp ra. Nhưng với tình yêu thương chịu đựng hy sinh của người vợ, người đồng đội và cả sự đồng cảm nữ chiến sỹ Trường Sơn Lê Thị Sâm đã vượt lên xây dựng tổ ấm gia đình hạnh phúc với một thương binh nặng. Nghị  lực, bản lĩnh và tình thương yêu của nữ chiến sỹ Trường Sơn rất xứng đáng là tấm gương vượt khó của người lính “Cụ Hồ” giữa đời thường trên quê hương đất Tổ.

    Nữ chiến sĩ Trường Sơn Hoàng Thị Hùng sinh ngày 10/10/1954, là cô gái thùy mị nết na giàu tình cảm, quê tại xã Đào Xá, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ Ngày 24/8/1973, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, Hoàng Thị Hùng cùng 10 người bạn nữ trong xã viết đơn lên đường nhập ngũ, biên chế vào Sư đoàn 304B. Đơn vị đóng quân huấn luyện 2 tháng tại huyện Phú Bình, tỉnh Bắc  Thái. Tháng 11/1973 đơn vị được lệnh hành quân ra ga Lương Sơn đi tàu hỏa vào ga Vinh - Nghệ An chuyển sang ô tô tải đi Quảng Bình (vào đến bến phà Long Đại  lúc 1 giờ sáng). Tại đây các nữ tân binh lại được huấn luyện tiếp 2 tháng. Hoàng Thị Hùng được phân về Đội điều trị - Đoàn 559 đóng tại Gio Linh - Quảng Trị. Trải qua lớp học tại chức tại chỗ cấp tốc ngắn ngày dưới sự hướng dẫn của bác sĩ Hùng, bác sĩ Hóa, bác sĩ Bé, bác sĩ Lập - quê Quảng Bình, Hoàng Thị Hùng đã trở thành y tá thực hiện nhiệm vụ cứu chữa thương bệnh binh chiến trường chuyển ra hàng ngày. Nhiều đồng đội thương binh qua đội điều trị đã được chị tận tình chăm sóc, qua khỏi. Bao câu chuyện cảm động, bao giọt nước mắt đã rơi. Hoàng Thị Hùng đều phải nén giấu nỗi đau để động viên an ủi các anh lúc trái gió trở trời và cơn đau nơi trạm phẫu. Mỗi thương binh được chữa khỏi là một niềm vui khôn tả cho người chiến sỹ quân y nơi chiến trường. Bao kỷ niệm khó quên, bao câu nhắn nhủ: “Bao giờ hòa bình về quê gặp nhau nhé”,... rồi những món quà tự tay các anh làm: Lược chải tóc, hộp đựng kem đánh răng, làm bằng Đuyra xác máy bay trạm khắc cầu kỳ tỷ mẩn,... những múi dù còn giữ lại... những dòng thư ngắn ngủi và chữ viết nguệch ngoạc nơi chiến trường,... đầy ắp yêu thương cảm động. Hoàng Thị Hùng đã bao đêm ngày lặn lộn cùng đồng đội nơi rừng thiêng nước độc để góp phần cho ngày toàn thắng 30/4/1975. Hòa bình rồi, tháng 4/1977 Hoàng Thị Hùng được chuyển ra Binh đoàn 12 (Ba La Bông Đỏ - Hà Tây) làm y tá và cấp dưỡng để chờ ngày ra quân. Năm 1978 chị chuyển ngành về Nhà máy Dệt Vĩnh Phú.

    Năm tháng Trường Sơn của thời con gái trong đạn bom ác liệt, sốt rét mưa rừng, hóa chất độc hại của Mỹ để lại, ngày ra quân chị mang trong người nhiều bệnh tật và chất nhiễm độc da cam Dioxin. Chị đã vĩnh viễn không còn khả năng làm mẹ. Nhiều đêm không ngủ Hoàng Thị Hùng trăn trở: Nếu mình lấy chồng thì không thể sinh con, mặc nhiên vô hình chung mình lại làm khổ thêm người đàn ông... Thôi thì số phận đã rồi mình chịu đựng hy sinh một mình, mình chịu, không nên làm liên lụy đến ai. Dằn vặt giằng co, làm cho Hoàng Thị Hùng như người đi trên biển lớn không biết đâu là bờ. Cô muốn xa lánh mọi người và trở nên ít nói. Thế là trong một lần vào chùa khấn Phật đầu năm, duyên phận thế nào mà Hoàng Thị Hùng thấy đây là môi trường yên tĩnh để tâm hồn mình thư thái. Mấy ngày sau cô trốn gia đình cắt tóc đi tu vào chùa Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, Phú Thọ (năm 1980). Không giấu mãi được, mẹ đẻ cô biết chuyện, đã khóc và khuyên cô nếu đã xác định không lấy chồng thì nên chọn một việc làm có ích cho xã hội mà không xa lánh mọi người. Nghe lời mẹ, cô xin chuyển sang Làng trẻ SOS - Hà Nội năm 1981 (số ngõ 01 - Hoàng Quốc Việt - Hà Nội). Tại đây 2 mẹ và dì quản lý chăm sóc 10 cháu cơ nhỡ không nơi nương tựa dưới sự giúp đỡ của bà Hà Thị Đỗ - quê Mê Linh, Hà Nội. Năm 1985, làng trẻ cử Hoàng Thị Hùng cùng 20 mẹ, dì khác trong làng SOS này về Hải Phòng để tham quan và học hỏi thêm kinh nghiệm. Sau nửa năm làm việc ở đây thì cơ duyên thế nào, khi ấy trên tỉnh Phú Thọ cũng bắt đầu xây dựng triển khai mô hình Làng trẻ SOS, thế là cô cùng 14 cô khác xin về làng SOS Phú Thọ (ở thành phố Việt Trì, Phú Thọ). Tại đây, 15 cô phụ trách 15 nhà, 5 cô làm công tác hỗ trợ. Năm 1998, Làng trẻ SOS Phú Thọ đã bắt đầu đón trẻ cơ nhỡ không nơi nương tựa. Lớp đầu tiên của mẹ Hùng có 7 cháu (Giang, Biên, Lại, Ngân, Nga, Hảo, Huyền). Trong đó Hảo, Ngân, Nga  là 3 chị em ruột quê ở xã Cấp Dẫn, huyện Cẩm Khê, Phú Thọ. Bố mẹ mất mới cách ngày tiếp nhận về Làng trẻ SOS có 5 ngày. Khi các cô về xã để đón, các em mừng lắm và cứ bám lấy các mẹ không rời. Biên - quê xã Cổ Tiết, Tam Nông, Phú Thọ. Giang, Lại - quê huyện Hạ Hòa và tỉnh Yên Bái.

    Cô Hoàng Thị Hùng chia sẻ: Khi đó, tôi ở Làng trẻ có nhiều con nhận vào hoàn cảnh rất éo le, xót xa vô cùng như con Hoàng Tường An, lúc đó nhỏ tuổi nhất, nhặt được con ở cổng Bệnh viện Việt Trì, bị bỏ rơi phải cắt rốn đưa về nuôi. Ngày đầu, nuôi cháu quá vất vả, con thường xuyên ốm đau, bệnh tật liên miên tưởng chừng không qua khỏi. Thế mà trời phật thương, cháu dần khỏe mạnh và khôn lớn, đến nay cháu đã trưởng thành, tốt nghiệp Trường Đại học Y Thái Nguyên. Con Nguyễn Văn Duy khi vào Làng trẻ SOS mới 4 tuổi đến khi con 13 tuổi mẹ con tìm đến xin đòi lại. Nhưng về với mẹ đẻ, được vài tháng thì mẹ có con riêng, lại thường xuyên ốm đau bệnh tật, không nuôi nổi, mẹ con lại đưa con quay lại Làng trẻ, nhờ chăm nuôi. Nay con đã tốt nghiệp Đại  học Luật Hà Nội và đi làm tại Văn phòng luật tư nhân tại thủ đô Hà Nội. Các con được tôi chăm sóc giờ đều đã trưởng thành, khôn lớn, đó là niềm vui, giúp tôi quên đi những nhọc nhằn những ngày chăm con gian khổ.

    Nhớ lại những tháng năm gian khó, mẹ Hùng cùng các mẹ, các dì, các thầy cô đã vượt qua bao khó khăn để các cháu được nuôi dạy nên người có ích cho xã hội. Lúc khó khăn nhất mẹ Hoàng Thị Hùng đã phải thế chấp ngôi nhà tình nghĩa của mình để lấy tiền lo cho các con đi xuất khẩu lao động tại Nhật. Ngôi nhà đó được đồng đội hỗ trợ kinh phí khi cô nhận quyết định về hưu từ Làng trẻ SOS Phú Thọ, trong sự hỗ trợ đó có chị Trần Thị Chung - nguyên Chủ tịch Hội Nữ chiến sỹ Trường Sơn Việt Nam hỗ trợ (70 triệu đồng). Cô Hùng đã khóc khi kể lại: Năm 2006, trong đêm mưa gió, mẹ đẻ của tôi mất đột ngột ở quê. Khi đó 3 con do tôi chăm sóc đang sốt cao, cấp cứu ở Bệnh viện Việt Trì, tôi không kịp về với mẹ lúc lâm chung. Sáng hôm sau, tôi mới về quê cùng gia đình làm đám tang cho  mẹ. Các đồng đội nữ chiến sỹ Trường Sơn tỉnh Phú Thọ sang viếng. Hy sinh cả cuộc đời với tuổi xuân ở chiến trường Trường Sơn và mấy chục năm làm mẹ của 14 trẻ mồ côi cơ nhỡ nay các cháu đã nên người. Một chặng đường đánh đổi bao hy sinh mất mát thầm lặng. Khi chúng tôi hỏi lại suy nghĩ tâm tư của mình, nếu được làm lại cuộc đời thì chị sẽ chọn lựa con đường đi khác êm đẹp hơn không? Trả lời về vấn đề này, Hoàng Thị Hùng vẫn khảng khái không một chút do dự: “Nếu được làm lại cuộc đời tôi vẫn làm như vậy”. Những cống hiến, hy sinh, mất mát và chịu đựng là thế, nhưng nữ chiến sỹ Trường Sơn Hoàng Thị Hùng hôm nay vẫn thấy lòng mình thanh thản, nhẹ nhàng vì con đường mình đã đi qua đầy ý nghĩa. Chị là người có đức hy sinh cao cả và có tấm lòng nhân ái bao la. Chị là tấm gương sống và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại. 

    Trong số các nữ chiến sỹ Trường Sơn được sinh ra, lớn lên ở miền đất Tổ Vua Hùng thì còn có những nữ chiến sỹ Trường Sơn ở nhiều miền quê khác nhưng rời quân ngũ lại chọn Phú Thọ để công tác cống hiến. Nhắc lại về những năm tháng ấy, các chị vẫn nhớ như in về một thời khói lửa, đạn bom ác liệt, sự sống và những mất mát hy sinh vẫn ẩn sâu trong trái tim dung dị, chứa đựng nỗi niềm của bao cô gái nơi chiến trường huyền thoại.

    Sinh ra ở Thanh Tài, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An nhưng nữ chiến sỹ Trường Sơn Phạm Kim Ngân đã gắn bó gần hết cuộc đời còn lại ở mảnh đất Phú Thọ thiêng liêng nguồn cội: Chị Phạm Kim Ngân nhập ngũ ngày 5/7/1970. Do yêu cầu nhiệm vụ đơn vị lại tiếp tục hành quân 1 tháng 14 ngày để biên chế vào đại đội thông tin - Sư đoàn 472 - Đoàn 559 tại tỉnh Saphala khét - Lào. Đến năm 1973 được đơn vị cử đi học lớp tại chức cán bộ Tiểu đội và Trung đội trưởng - tốt nghiệp với quân hàm Thượng sỹ - chức vụ Trung đội trưởng. Với vai trò nhiệm vụ tuyên truyền vận động để chị em Tiểu đoàn Nữ công binh D1-E34-F472 hiểu rõ nhiệm vụ vào làm tuyến đường Hồ Chí Minh tại Lào. Trong công việc, chị Ngân luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

    Năm 1974, chị chuyển ngành ra quân về Nhà máy dệt Vĩnh Phú công tác. Năm 1993, chị nghỉ hưu, trở về cuộc sống đời thường. Chị Phạm Kim Ngân luôn gắn kết nghĩa tình với các đồng đội nữ chiến sỹ Trường Sơn tỉnh Phú Thọ và tích cực tham gia công tác đoàn thể ở địa phương như: Chi hội trưởng CCB khu 4, Chi hội phụ nữ, Tổ trưởng tổ dân phố, Phó Ban công tác mặt trận K4 phường Nông Trang, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Năm 2003, chị Phạm Kim Ngân về sinh hoạt Hội Cựu chiến binh, Hội đồng ngũ và BLL nữ chiến sỹ Trường Sơn, tại đây chị có dịp được gặp gỡ nhiều đồng đội chiến sĩ năm xưa đã từng gắn bó, trong đó có đồng chí Phạm Văn Yêu quê xã Vĩnh Sơn, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Hai người là đồng đội của nhau cùng thông cảm, giải tỏa được nỗi niềm khó nói nơi chiến trận cùng với sự cảm thông trong khi làm nhiệm vụ phục vụ chiến đấu của Nữ chiến sỹ tổng đài Trường Sơn năm xưa. Đến nay họ vẫn là những người đồng đội thân thiết của nhau.

    Chị Nguyễn Thị Thì sinh ra tại vùng quê ven sông Cầu, xã Ninh Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Chị lên đường nhập ngũ ngày 20/5/1971 khi ấy cuộc chiến tranh chống Mỹ ngày càng ác liệt. Chị tập trung tại xã rồi lên huyện, lên thành phố Bắc Ninh gần Bệnh viện 10, được điều về Quảng Ninh huấn luyện ở đây hơn 2 tháng để bổ sung vào chiến trường. Chị Nguyễn Thị Thì được biên chế vào đơn vị xăng dầu C2 - D68 - E592 - Đoàn 559.

    Năm1974, chị Thì chuyển ngành ra công tác tại Nhà máy Dệt Vĩnh Phú. Đến nay, tuổi cao, sức đã yếu nhưng chị Nguyễn Thị Thì vẫn thường nhắc các con các cháu nhớ về truyền thống gia đình trong việc chịu khó luyện tập bơi lội để giúp ích cho chính mình và mọi người khi có tình huống xấu xảy ra. Đấy cũng là một cách để rèn luyện sức khỏe và thiết thực phục vụ cho bản thân, gia đình, xã hội. Có lẽ, những năm tháng thời quân ngũ đối với nữ chiến sỹ Trường Sơn Nguyễn Thị Thì thật ấn tượng và nhiều ý nghĩa. Đó là những kỷ niệm đẹp đối với người nữ chiến sỹ, người con gái quê hương Sông Cầu thơ mộng - chị đã có một thời để nhớ nơi chiến trường ác liệt.

    Những cống hiến lớn lao của những nữ chiến sỹ Trường Sơn năm xưa và những việc làm nghĩa tình của nữ chiến sĩ Trường Sơn Đất Tổ hôm nay như mạch nguồn chảy mãi. Những câu chuyện của họ đã trở thành tấm gương sáng, bài học cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau. Nói đến những chiến công huyền thoại của những nữ chiến sỹ Trường Sơn trong cuộc chiến đấu chống Mỹ gian khổ, các chị đã dâng hiến cả tuổi thanh xuân cho Tổ quốc, trong đó có biết bao nữ chiến sỹ Trường Sơn đã nằm lại với Trường Sơn đại ngàn, mãi mãi gửi lại Trường Sơn tuổi thanh xuân. Sự hy sinh của các chị đã viết nên trang sử hào hùng của dân tộc, góp phần tỏa sáng truyền thống “Anh hùng bất khuất, trung hậu đảm đang” của phụ nữ Việt Nam. 

    Chiến tranh lùi xa, các chị trở về mỗi người một nơi và tham gia lao động, học tập, sản xuất để phát triển kinh tế gia đình. Khi tuổi đời đã ngoài 60 thì họ lại cùng sinh hoạt ở mái nhà chung Ban Liên lạc nữ chiến sỹ Trường Sơn tỉnh Phú Thọ, để cùng nhau ôn lại những kỷ niệm một thời vào sinh ra tử, đặc biệt là chia sẻ, giúp đỡ những gia đình đồng đội còn khó khăn, vất vả. Những kỷ niệm và những câu chuyện của những Cựu chiến binh, nữ chiến sĩ bộ đội Trường Sơn Đất Tổ là kỷ niệm riêng, cũng là những cống hiến một thời con gái, tuổi đời đẹp nhất cho Tổ quốc, làm nên chiến thắng lịch sử của đất nước. Họ đã viết nên những câu chuyện cùng năm tháng để mỗi khi nhắc lại, chúng ta lại càng trân trọng, thêm tin vào những điều đẹp đẽ luôn tồn tại trong cuộc sống.

    Giờ đây, những nữ chiến sĩ Trường Sơn tóc đã bạc, da đã mồi nhưng mỗi dịp được gặp gỡ, ngồi bên nhau họ vẫn tươi cười hồn nhiên như mới tuổi mười tám, đôi mươi như khi đang ra trận. Mỗi người là một số phận, nhưng điểm chung ẩn chứa trong mỗi số phận ấy là sức chịu đựng, đức hy sinh, sự lạc quan, không ngại nhận phần khó, phần khổ về mình. Đó là những điều đã được tôi luyện qua thời đạn bom khói lửa. Ở họ chính là biểu tượng của tinh thần yêu nước và ý chí sắt đá, kiên trung không bao giờ khuất phục kẻ thù của người phụ nữ Việt Nam. 

                                          V.V.Đ - N.P.V

    Chia sẻ
    TIN KHÁC
    img
    Chuyện về người chiến sỹ năm xưa
    img
    Hạt nhân của mọi tác phẩm văn học, nghệ thuật
    img
    Di chúc - những lời tâm huyết của Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho chúng ta
    img
    “Đảo là nhà, biển cả là quê hương”
    img
    Nhớ lời Bác dạy tại Đền Hùng năm ấy
    img
    Miền Nam nhớ Bác
    img
    Người Việt trọng tình
    img
    Người cựu chiến binh nặng tình đồng đội
    img
    Chuyện về những nữ chiến sỹ Trường Sơn Đất Tổ năm xưa (Kỳ 1)
    img
    Sức sống của Quy định 144-QĐ/TW (*) được bắt đầu từ “năng lực quản trị bản thân” của cán bộ, đảng viên
    Xem thêm

    Gặp mặt, ra mắt Chi hội Mĩ thuật Việt Nam tại Phú Thọ, nhiệm kì 2025 - 2030

    Ngày 1/8/2025 tại Hội Liên hiệp VHNT Phú Thọ, Chi hội Mĩ thuật Việt Nam tại Phú Thọ đã tổ chức Hội nghị gặp mặt, ra mắt Chi hội Mĩ thuật Việt Nam tại Phú Thọ, nhiệm kì 2025 - 2030. Tới dự có họa sĩ...

    Hội thảo với chủ đề “Văn học nghệ thuật cùng đất nước tiến vào kỷ nguyên mới” tại Hải Phòng

    Ngày 30/7, tại phường Đồ Sơn, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật thành phố Hải Phòng chủ trì tổ chức Hội thảo với chủ đề “Văn học nghệ thuật cùng đất nước tiến vào kỷ nguyên mới”. Dự...

    Lấy ý kiến tham gia vào dự thảo các văn kiện của Đảng

    Ngày 9/7, Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy tổ chức hội nghị lấy ý kiến tham gia vào Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng và Đại hội đại biểu của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, nhiệm kỳ 2025-...

    Đại hội Chi bộ Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Phú Thọ, nhiệm kỳ 2025-2030

    Ngày 30/6/2025, Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Phú Thọ tổ chức Đại hội Chi bộ nhiệm kỳ 2025-2030. Tới dự có đại diện Đảng ủy các cơ quan Đảng tỉnh; các đồng chí trong Cấp ủy Chi bộ và toàn thể đảng...
    CƠ QUAN NGÔN LUẬN CỦA HỘI LIÊN HIỆP VĂN HỌC NGHỆ THUẬT PHÚ THỌ
    Tổng biên tập: Nhà văn NGUYỄN THỊ HỒNG CHÍNH
    Mọi thông tin, sao chép, khai thác tổng hợp phải ghi rõ nguồn Tạp chí Văn nghệ Đất Tổ online và phải được Tạp chí cho phép bằng văn bản
    CHUYÊN MỤC
    Tin tức - sự kiện Phú Thọ hôm nay Văn hóa - xã hội Kinh tế - KHCN Hội Liên hiệp VHNT Tạp chí in Văn nghệ cấp huyện
    Đất Tổ Vua Hùng Media Văn học Phê bình - Giới thiệu Nghệ thuật Bút ký văn học Thông tin đơn vị, doanh nghiệp
    THÔNG TIN LIÊN HỆ
    Địa chỉ: Tạp chí Văn nghệ Đất Tổ Online
    Điện thoại: 0210.3811984; 3816945
    Email: tapchivannghedatto@gmail.com
    Giấy phép số 486/GP-BTTTT, ngày 10/10/2022 của Bộ Thông tin và Truyền thông về việc cho phép Tạp chí Văn nghệ Đất Tổ hoạt động 02 loại hình là: Tạp chí in và Tạp chí điện tử
    LIÊN HỆ QUẢNG CÁO
    Liên hệ quảng cáo:
    Thông tin liên hệ gửi bài cho Tạp chí

    Số lượt truy cập: