Cũng từ đấy, Nguyễn Xuân Ngọc (như nhiều bạn trẻ làm thơ khác trong khối sinh viên) dần dần gắn bó thân thiết với cặp giảng viên trẻ Trần Hòa Bình - Bùi Quang Thanh của khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, Xuân Hòa; tham gia trực tiếp vào những đêm thơ “cây nhà - lá vườn” diễn ra vào các năm tiếp theo. Vậy là, bên cạnh những “cây bút” thơ và phê bình văn chương Ngô Văn Giá, Nguyễn Đăng Điệp, Lê Triển, Lê Toan, Trần Hồng,... nhóm thơ “Xuân Hòa” của chúng tôi lại có thêm những Nguyễn Đình Minh, rồi Trương Thiếu Huyền, Nguyễn Xuân Ngọc,... tạo thành lực lượng nòng cốt cho mỗi đêm thơ, tuy chân chất, hồn nhiên nhưng lại hấp dẫn hàng trăm bạn yêu thơ giữa vùng đất bán sơn địa cằn khô... văn hóa này ! Và, vào cái đêm thơ mừng Ngày Sinh viên toàn quốc ấy, bên cạnh bài thơ danh tiếng “Thêm một” của Trần Hòa Bình lần đầu tiên được “xuất bản” miệng với bạn nghe thơ của trường, hàng chục bài thơ của các thầy cô cùng các thi sĩ của khoa Ngữ văn đã vang ngân cùng những ca khúc bất hủ của nhiều thế hệ nhạc sĩ lừng danh trong, ngoài nước. Có lẽ, dịp “xuất hiện” lần đầu tiên của cây bút thơ Nguyễn Xuân Ngọc - cùng một số cây bút khác, từ thời khắc này sẽ là một dấu ấn đặc biệt đối với chính mỗi tác giả, như dự báo cho những chặng đường thơ sắp tới của mỗi người...!
Cầm đọc lần lượt ba tập thơ của Ngọc, tôi cứ lẩn thẩn ngồi nghĩ: Nếu như Nguyễn Xuân Ngọc cứ suốt đời gắn với bục giảng thì cây bút thơ, tâm hồn thơ trong con người này sẽ được “giải tỏa” ra sao nhỉ? Điều chắc, đấy sẽ là một nhà giáo làm thơ với mạch cảm hứng từ mái trường, bục giảng cùng những chiêm nghiệm từ sâu thẳm những trang văn, trang thơ của các thế hệ tiền nhân mà Ngọc được đọc, được bình trước các lớp/ thế hệ học sinh của miền trung du, nơi anh sinh ra và lớn lên lập nghiệp. Thực tế cho hay, hình như cứ quanh quẩn với không gian của những “bục giảng” - “sân trường”, từ cổ chí kim cho đến nay, thật khó có những bài thơ hay về nghề giáo, khó có những nhà thơ danh tiếng gắn trọn đời mình với nghiệp “lái đò” ở một vùng quê yên tĩnh như đất trung du của Ngọc ! Và quả thực, sau 6 năm gắn với “bục giảng”, Ngọc tích tụ lại để rồi cho ra đời tập thơ “Lãng đãng tình thu” (Nxb Hội Nhà văn, 2006), gửi gắm tâm hồn trong trẻo của một thầy giáo trẻ với những câu thơ “vui vẻ - trẻ trung”, đa phần hứng khởi về cảnh đẹp non sông, về vóc dáng những thiếu nữ non tơ mộng mơ trước thời trang và sách vở.
Không biết có đúng không, cái mệnh của Nguyễn Xuân Ngọc dường như phải gắn với những cuộc “thiên di” thì mới khả dĩ phù hợp với chất lãng du/ ham xê dịch và đam mê của một tâm hồn đa cảm! Cái sự “dịch chuyển” của Ngọc từ “bục giảng” sang nghề báo chuyên nghiệp ở Đài Phát thanh - Truyền hình Phú Thọ có gì đấy (trộm nghĩ!) như bước chuyển của... ”nghiệp chướng” vậy (!). Cũng bởi vậy, bước đường tác nghiệp của cái “tạng” vốn coi công việc làm thơ như là điều tất yếu, dù không phải để sinh tồn, đã bắt gặp thời cơ tung tẩy, thỏa mãn cái duyên phận thiên bẩm của mình. Ngọc từng phi lộ: ”Đối với tôi, thơ không phải để sống, cũng không phải “nghiệp” chính; nhưng sống thì làm thơ như là một sự “tùy duyên”! “Hữu duyên duyên khởi”, thơ cứ tự nhiên đến...”! Không phải ngẫu nhiên mà, ngay từ khi “vượt” ra ngoài không gian bục giảng, ngược xuôi tác nghiệp theo nhiệm vụ tại môi sinh mới, hàng loạt bài thơ của Ngọc ra đời đã “lộ” ra đích thị chủ nhân của nó là người ham... ”xê dịch”! Lại những chuyến đi, vãng cảnh, vãng người, ở cơ man những vùng quê khác nhau từ Bắc vào Nam, từ rừng xuống biển... Đi là để mở mang tầm nhìn, tầm hiểu biết, lấy đó làm chất liệu cho cấu tứ, cho hình hài mỗi câu thơ, bài thơ. Hội tụ từ những chuyến “xê dịch” của Xuân Ngọc đã dồn lại trong các tập thơ Bồ kết (Nxb Văn học, 2013) và Oải hương (Nxb Văn học, 2016). Được hỏi về hành trình “tác nghiệp thơ” qua hai tập thơ này, Ngọc phân bua: Cũng là học từ các thế hệ văn chương tiền nhân và đàn anh mà có được. Làm văn chương, cứ là phải đi, đi cho biết. Vừa đi vừa tìm đọc. Cụ Nguyễn Tuân cũng có lần bảo thế. Đi để mở mang, làm giàu có thêm cho cái “phông” văn hóa của mình. Từ đó mà/ mới có cái nhìn sâu vào một”cõi” được! Hàng loạt bài thơ trong hai tập thơ kia đã minh chứng cho hàng chục chuyến đi ấy. Những bài thơ sinh ra sau mỗi chuyến đi như định hình cho sự hiểu biết của người sinh ra nó, cũng là nguồn “tri thức” và “vốn sống” được trải nghiệm, chuyển hóa thành thơ, tăng thêm sức nặng, từ ghi chép ban sơ đến quy tụ thành những đánh giá và triết lý sau đó. Bám theo hành trình với ý thức trải nghiệm của Xuân Ngọc, ta dễ dàng đón nhận những nếp cảm, nếp nghĩ của người thơ, từ Đêm trăng Tam Đảo đến Chợ tình (Mộc Châu) xa em; từ dằng dặc miền Trung đến Chiến khu rừng Sác; từ Một thoáng Sơn La đã vượt trùng dương ra thăm Côn Đảo, Côn Lôn,... Và rồi cơ man những thân phận, ngóc ngách của cuộc sống đã “ùa” vào thơ Ngọc với những cách cảm, cách nghĩ tưởng như thường nhật, chân phương nhưng lại gợi nỗi ưu tư, sâu lắng từ nỗi niềm của kẻ được quan chiêm, gặp gỡ. Tôi đồng cảm với nhận xét của nhà thơ Kim Dũng, khi ông đọc xong Bồ kết: “Xuân Ngọc làm báo có điều kiện đi đến nhiều vùng quê để tác nghiệp; đấy là những chất liệu phong phú của đời sống để mở rộng biên độ thơ thêm đa dạng. Cố nhiên, từ chất liệu đời sống đến tần số rung động thành tứ thơ, hình tượng, ý tưởng thơ còn là sự “lao tâm khổ tứ”, cực nhọc của nhà thơ như con tằm rút ruột nhả tơ chứ đâu phải con nhện chăng tơ theo bản năng thói quen của nó”. Và “bám” theo hành trình trải nghiệm để làm thơ của Nguyễn Xuân Ngọc qua hàng chục năm trời, đến tập Oải hương (2016), đúng như nhà thơ Nguyễn Hưng Hải đã nói giùm: ”...vẫn gặp một Nguyễn Xuân Ngọc nhiều hoài niệm, bâng khuâng, đằm thắm và day dứt. Cái mới ở tập thơ này có lẽ là biên độ mỗi câu thơ, bài thơ đã được mở rộng hơn; đề tài cũng phong phú hơn. Bao trùm lên tất cả là một thái độ nhập cuộc dứt khoát; ở đây gặp tiếng nói của người trong cuộc, tiếng lòng của một trái tim đa cảm, giàu nhân ái, luôn khát khao cuộc đời này không còn những bi ai, buồn tủi. Ở một khía cạnh khác, lại bắt gặp rất nhiều thảng thốt, mê đắm trước cái đẹp và vẻ đẹp; cũng không ít những buồn thương tiếc nuối...”.
Nhập cuộc với thơ, Nguyễn Xuân Ngọc từ trải nghiệm vẻ đẹp của đất trời đến chút bâng khuâng của làn hương Bồ kết; và rồi tìm đến nỗi trăn trở sự đời, sự người cùng nỗi niềm đầy nhân bản qua Oải hương, tôi mới dần vỡ lẽ khi lần đọc tập bản thảo Ngọc mới đưa cho, mang tựa đề Trong cõi vô thường! Ôi chao, động đến “cõi vô thường” là động đến nỗi niềm sâu lắng của cõi nhân sinh, theo luận lý thâm hậu nhà Phật bên cạnh những “vô tạo giả” và “duyên khởi”, nơi hợp thành để sinh ra thế giới quan nhị nguyên luận của giáo phái. Vô thường như một cách nhìn thiện căn về sự biến đổi vô cùng theo chu kì bất tận, luân hồi theo quy luật tất yếu của trời đất sinh - trụ - diệt - dị. Thấm được cõi vô thường là hướng đến sự an nhiên trước mọi biến đổi của đất trời và mọi sinh linh, không có gì mãi mãi vĩnh cửu. Giữa chốn vô thường ấy, biết bao kẻ sĩ đã phi lộ nỗi niềm - tâm tư ước mong hướng đến cuộc sống bình yên giữa bao biến cải, thiện ác của những kiếp người, kiếp đời và vũ trụ bao la...Bất giác, trong tôi như lại vang ngân những đoản khúc hướng đến cõi vô thường của nhạc sĩ tài danh Trịnh Công Sơn, những câu thơ, bài thơ chạm đến cõi vô thường của các tao nhân mặc khách xưa nay... Thì ra, đa phần kẻ sĩ, trên hành trình của đời mình, dường như sau những năm tháng đã “quăng quật”, “lăn lộn” với đời để trải nghiệm, để mở mang tầm hiểu biết, sẽ lại là khoảng đường phía cuối đời dành cho sự chiêm nghiệm, kiểm nghiệm, ngộ giác về cuộc đời, lẽ đời, đưa tác phẩm của mình chuyển bước dần từ nhận biết duy tình sang một chặng mới của duy lý, tìm đến sự an nhiên trong cõi vô thường để tồn tại. Có lẽ, Nguyễn Xuân Ngọc, sau ngót bốn chục năm đam mê với thi ca, nay cũng có ý nguyện hướng mình về một lẽ an nhiên ấy chăng, trước bao biến cải theo quy luật của kiếp người và thời thế?!? Tôi lần tìm vào “cõi vô thường” của Ngọc với tâm thế đó. Và bắt gặp được không ít sự tình!
Không phải ngẫu nhiên, Nguyễn Xuân Ngọc dành hẳn bài thơ đầu tiên, dịch ghép lời thơ của những Mãn Giác thiền sư và Vạn Hạnh thiền sư như một cách thay lời đề từ cho tập thơ mới của mình. Cái quy luật Sắc Sắc - Không Không được nhận diện đầy tính triết lý” Vạn vật đến rồi đi; Muốn, chẳng thể níu giữ; Đời ta trong lẽ vô thường; Hên - xui, được - mất...vấn vương bận lòng”! Như có cảm nhận, dạng những bài thơ từ hương Bồ kết đèm đẹp đến cảnh sắc mây gió trăng hoa từ Oải hương đã dần nhường nhỗ cho những bài thơ, câu thơ đượm màu triết lý, sâu lắng nỗi nghĩ suy. Từ thảng thốt tưởng vô tư ngày biển động: “Sao không sống như đời của sóng; Cứ yêu thương trước vụn vỡ tan tành”! Đến nỗi an nhiên khi bắt gặp chiều mưa Bà Nà: “Biết mưa rồi nắng sẽ ửng hồng thôi; Như bảy sắc cầu vồng hiện trên chùa Linh Ứng”. Lại từ nỗi giận - thương: “Em hãy tin có luật đời nhân quả; Cỏ ven đường xuân vẫn độ nở hoa”; đến: “Chắp tay lạy Phật Quan Âm, Từ - Bi - Hỷ - Xả gieo mầm thiện lương”. Cả tập thơ, vẫn là những cảnh, những người dường như đã gặp, dường như Nguyễn Xuân Ngọc đã từng ghé qua, đã từng gặp mặt. Vậy mà, mang thứ tâm thế hướng đến cõi an nhiên trước sự vô thường, Nguyễn Xuân Ngọc đã dấn thân nhập vào bằng suy tư duy lý của mình cho câu thơ, bài thơ thêm “nặng”, mang lại nỗi “ám ảnh” (chữ của Trần Đăng Khoa) cho với chính người đọc nó. Kết lại chuỗi tâm tư tưởng chừng vô hạn với những khoảng “vô ngôn” ẩn chứa qua khá nhiều câu thơ, bài thơ, Nguyễn Xuân Ngọc như muốn gửi gắm mọi người: “Sống an nhiên thuận đạo trời; Chẳng so hơn thiệt với đời lợi danh; Giọt sương lóng lánh đầu cành; Tan vào trời đất... Mong manh... Vô thường”!
Vâng, cõi vô thường của Nguyễn Xuân Ngọc đã dâng hiến cho bạn đọc những chục bài thơ vốn được gửi gắm bằng tất cả sự đam mê và tấm lòng thức nhận của tác giả trước thời thế, con người, trước thiên nhiên cũng như trước khoảng thời gian - không gian vô tận. Đây chẳng khác nào một “bữa tiệc” thơ hàm chứa nhiều bổ ích cho tâm trí người đọc như tôi. Đương nhiên, với cõi vô thường này, chắc hẳn vẫn còn không ít chút gợn về giọng điệu thi ca, về ẩn ý ngôn từ, về cấu tứ thơ cần được chỉnh trang, bổ khuyết. Nhưng dù sao, nói như thi sĩ Trần Đăng Khoa, một khi đã mang tâm thế thưởng thức một tập thơ như thưởng thức một đại tiệc, người đọc chắc sẽ thể tất cho một bữa tiệc vừa có rượu ngon và sơn hào hải vị, lại có thêm món dưa chua cùng nước lọc để... giã rượu, như vậy sẽ thấy dư vị của món tiệc được thưởng thức từ một “đầu bếp” đa cảm, giàu lòng nhân ái và luôn khát khao mang lại niềm vui, sức sống góp thêm cho cuộc đời này càng ngon và hợp khẩu vị hơn!
B.Q.T