(Hay là người thơ Nguyễn Thị Lan Thanh cháy đến giọt cuối cùng...)
“Một mình gánh chữ vào thơ” (Một mình - Nguyễn Thị Lan Thanh).
1. Hai bàn tay thì chưa... đầy
Tính từ tập thơ đầu tay Mùa thu nhớ (2000) đến tập thơ mới nhất còn thơm mùi mực Thắp lên nỗi nhớ (2024), người thơ (tác giả tự xưng như thế “Người thơ/ ngật ngưỡng/ lời nào thăng hoa”, tôi không tùy tiện đặt ra) Nguyễn Thị Lan Thanh đã trình hiện trên văn đàn Việt Nam đương đại 14 tập thơ. Cổ nhân nói “Hai bàn tay thì đầy” (đủ mười ngón tay). Nhưng câu này chưa vận được vào trường hợp người thơ Nguyễn Thị Lan Thanh, tôi thực sự vui mừng coi đó là một “con số biết nói”. Đường lớn (đại lộ) đến/ vào thơ của người thơ miền Đất Tổ đã dài rộng, thênh thang. Tôi còn lưu giữ trong ký ức chữ của mình sự kiện lễ ra mắt Tuyển tập thơ Nguyễn Đình Ảnh và Thơ Nguyễn Thị Lan Thanh (như là dạng tuyển thơ) tổ chức ở thành phố Việt Trì (Phú Thọ), vào độ giữa thu, năm 2016, có sự tham dự đông đảo của các văn nhân đến từ Hà Nội và sở tại. Dịp đó tôi đã góp một bài viết nhỏ, có tựa Trên đôi cánh thi ca, về hai tuyển tập thơ của vợ chồng thi nhân Nguyễn Đình Ảnh - Nguyễn Thị Lan Thanh. Trong bài viết này tôi nói rõ và kỹ hơn về sự hòa âm của thơ vợ - thơ chồng trên đôi cánh của nghĩa tào khang và tình cố hương, đồng thời tâm đắc với cách “chơi” lục bát của hai người thơ miền Đất Tổ.
Tập thơ thứ mười bốn của người thơ Ngyễn Thị Lan Thanh với tựa Thắp lên nỗi nhớ, gồm 61 bài, trải dài theo niên đại ghi cuối mỗi bài thơ, từ Sông Hồng (19/8/2010) và gần nhất Kỳ Co - Eo Gió (18/2/2023). Nên cũng có thể coi Thắp lên nỗi nhớ là một dạng thơ chọn (tuyển) của hơn một thập kỷ khi “Vần thơ định mệnh đã dành cho ai” (Lỗi mùa). Đã là “thắp lên nỗi nhớ” thì ắt hẳn thơ phái có lửa, phải cháy đến giọt cuối cùng, được đốt cháy trái tim đến thành trí tuệ và đốt cháy trí tuệ đến thành trái tim. Thơ của người thơ Nguyễn Thị Lan Thanh xuyên suốt gần phần tư thế kỷ là thế: trung thành với lý tưởng sống tích cực, nhân văn và lý tưởng thẩm mỹ “Cái đẹp chính là cuộc đời”. Nói cách khác qua 14 tập thơ của người thơ Nguyễn Thị Lan Thanh chúng ta thấy hiện thực và lãng mạn cùng dìu nhau bay lên nhịp nhàng, ít thấy sự chênh chao hay đứt đoạn, gãy khúc.
2. Thơ và năng lượng neo chữ
Thắp lên nỗi nhớ chính là “Vẫn ước mình xanh lại những ngày xuân” (bài thơ Thắp lên nỗi nhớ, dài 46 câu, viết tặng trường THPT Việt Trì nhân dịp Kỷ niệm 60 năm thành lập trường, 1962 - 2022). Nơi đây người thơ đã gắn bó với mái trường thân yêu, với thầy/cô và trò, với bảng đen và phấn trắng, với hoa phượng đỏ rực và tiếng ve kêu râm ran mỗi khi hè đến, từ 1973 đến khi nghỉ hưu (1991). Một phần tư thế kỷ gắn bó với mái trường thân yêu như một phần đời máu thịt đã khiến cho người thơ có cái nhiệt hứng “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn” (Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên). Tôi là đồng nghiệp với người thơ Nguyễn Thị Lan Thanh, làm nghề dạy học ở ngôi trường Đại học Tổng hợp Hà Nội 37 năm có lẻ (từ 1974 - 2011). Nên thấu cảm, thấu hiểu những tâm sự chân thành và tha thiết tột cùng của người thơ làm nghề dạy Văn ở một ngôi trường danh tiếng của miền Đất Tổ. Từ nhớ đến mong “Vẫn ước mình xanh lại những ngày xuân/ Để lại được đứng trên bục giảng/ Thả hồn mình theo tiếng trống vang ngân”. Không ai quay ngược được thời gian vật lý, nhưng thời gian - tâm lý thì có thể, vì thời gian hai chiều luôn có phép tương liên biện chứng, bằng hồi cố, đồng hiện.
Nói thắp lên nỗi nhớ luôn bùng cháy trong thơ người thơ Nguyễn Thị Lan Thanh là nói đến nỗi nhớ người bạn đời - bạn thơ Nguyễn Đình Ảnh. Nên không có gì bất ngờ khi những vần thơ hay nhất trong tập thơ Thắp lên nỗi nhớ chính là khi người thơ Nguyễn Thị Lan Thanh viết về người bạn đời đã đi xa trước đó nhiều năm trong những thi phẩm đặc sắc như Đợi mong, Mười năm, Một chiều, Mười lăm năm,... Viết về nỗi nhớ bạn đời - bạn thơ như trong Một chiều (theo cảm quan của riêng tôi có thể xếp vào hàng súc tích, chữ và nghĩa đan bện, hài hòa nhất trong tập thơ): “Một chiều về lại Thủ đô/ Sao cứ muốn đến bên hồ đợi anh!/ Gió hè thổi buốt hương chanh/ Góc phố vẫn đấy... mà anh đâu rồi?/ Chiếc ghế đá, nắng và tôi /Ngỡ cháy cả áng mây trôi trên hồ!”. Bài thơ này người thơ Nguyễn Thị Lan Thanh viết 6/2008, nghĩa là hai năm sau ra đi của người bạn đời - bạn thơ Nguyễn Đình Ảnh (4/3/1942 - 4/12/2006). Thời gian mới chưa qua kỳ “giỗ hết” nên nỗi đau mất mát dường như còn bỏng rát và tê buốt tâm can người ở lại. Nên câu thơ “Gió hè thổi buốt hương chanh” cực kỳ cô đọng, tạo nên ý tại ngôn ngoại như một đặc trưng độc quyền của thơ ca, vốn được xem là thể loại “trữ tình” huyền diệu nhất của nghệ thuật ngôn từ.
Nói thắp lên nỗi nhớ là nói tới hoài niệm về thời xuân xanh đã qua của một con người, nhất là phụ nữ. Người thơ Nguyễn Thị Lan Thanh đã bước qua tuổi 80 một cách ngoạn mục. Bà thành đạt về nghề “truyền chữ” cho các thế hệ học trò qua môn Văn trong nhà trường phổ thông. Và cũng thành danh với nghề chữ được hiểu là nghề văn theo cách diễn đạt của nhà văn Nguyễn Tuân. Đọc bài thơ Chén xuân mở đầu tập thơ Thắp lên nỗi nhớ của người thơ Nguyễn Thị Lan Thanh, đến câu “Chén này/ em rót sang ta/ Uống nhau bằng mắt/ cay phà vào trăng”, tôi chợt nhớ tới bài thơ Uống rượu với Tản Đà (viết 1938) của thi nhân Trần Huyền Trân (1913 - 1989) tặng đại thi sỹ Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu (1889 - 1939), có những câu tê buốt nhân tình thế thái, dư âm tận tới ngày nay: “Rồi lên ta uống với nhau/ Rót đau lòng ấy vào đau lòng này”. Ở đây có chăng sự gặp gỡ tâm trạng của hậu sinh khả úy với bậc tiền nhân tài hoa và anh minh?! Nhân dịp phê bình tập thơ thứ 14 của người thơ Nguyễn Thị Lan Thanh, tôi mạo muội chép tặng (nguyên văn) quý độc giả yêu thơ bài thơ Chén xuân, thiển nghĩ, là một trong những bài thơ hay nhất của tập thơ Thắp lên nỗi nhớ “Chén này/ vui đón xuân về/ Đông đang cuốn rét tái tê/ lên trời/ Cây mừng.../ nở lộc xanh tươi/ Đào e ấp nụ/ quất cười thưởng hoa/ Chén này/ em rót sang ta/ Uống nhau bằng mắt/ cay phà vào trăng/ Nhấp môi/ chạm phải chị Hằng/ Chung chiêng/ biết chốn lệch bằng ra sao/ Tứ thơ/ nghiêng ngả chênh chao/ Người thơ ngật ngưỡng/ lời nào thăng hoa/ Thôi!/ đừng rót lửa vào ta/ Nhỡ trăng/ bùng cháy/ ao nhà tưởng sông.../ Ao làng/ Ngỡ bến mênh mông/ Chén xuân chưa cạn/ sao lòng đã say”. Đây là lối viết “Anh ngồi rót biển vào chai” như trong thi phẩm nổi tiếng Biển vắng của thi sỹ Trịnh Thanh Sơn (1948 - 2007). Tôi không dám chắc người thơ Nguyễn Thị Lan Thanh đã đọc thơ Trần Huyền Trân và Trịnh Thanh Sơn, như dẫn liệu đáng tin cậy vừa nêu trên. Nhưng những tư tưởng sâu sắc về cuộc đời và con người, những rung động thơ chín nẫu có thể gặp nhau như là những tình huống đời sống giàu tâm trạng điển hình vừa ngẫu nhiên vừa tất nhiên. Tại sao không!?
Nói thắp lên nỗi nhớ không chỉ nói về cái chất trữ tình riêng tây của người thơ mà cả khi tình cảm tâm trạng ấy được thi nhân mở lòng với cả tạo vật thiên nhiên, quê hương đất nước núi rộng sông dài, rừng vàng biển bạc. Đọc thơ Nguyễn Thị Lan Thanh trong tập Thắp lên nỗi nhớ mới thấy người thơ chịu khó chịu khổ, nhưng rất vui vẻ vì để “đi - đọc - viết” vốn được coi như công việc chính yếu của nhà văn, lại cũng vì “Cứ đi, cứ đi, trời xanh thêm” như một câu thơ hào hiệp trong thi phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính của thi nhân Phạm Tiến Duật (1941 - 2007), người đồng hương vĩ đại của người thơ Nguyễn Thị Lan Thanh. Thơ viết về chủ đề “Thiên nhiên kỳ diệu” (34/61 bài) “phủ sóng” trong tập thơ thứ 14 Thắp lên nỗi nhớ. Đi nhiều, biết nhiều, để gây dựng cảm xúc lớn trong thơ Nguyễn Thị Lan Thanh, tôi gọi là lối “đi văn hóa” hay là “tâm lý xuyên văn hóa”. Nó được coi như một cách thế tồn tại trong thế giới tự nhiên và đời sống xã hội của người thơ. Vì thế, thơ Nguyễn Thị Lan Thanh không thuộc kiểu cố “chui vào” hay “cố thủ” trong những “tháp ngà”, hay xoắn xuýt với “tự ngã trung tâm” thuần túy, trở nên bí hiểm và khó hiểu với độc giả hôm nay thông minh và khó tính hơn trước. Thơ viết về vẻ đẹp của thiên nhiên kỳ diệu trong Thắp lên nỗi nhớ, tôi gọi là thơ của đại khí, thơ của hào hiệp và phóng khoáng, một lối thơ không phải lúc nào cũng phù hợp với các cây bút nữ. Tuy nhiên, phải thẳng thắn thừa nhận trong tổng số 31 bài về chủ đề “Thiên nhiên kỳ diệu” người thơ Nguyễn Thi Lan Thanh cũng đã để “lọt sàng” vài ba “cái” mới chỉ ở mức trung bình khá. Trong nghệ thuật mức “trung bình khá” đã coi như không thành công. Đành lòng vậy, cầm lòng vây!?
Người thơ Nguyễn Thị Lan Thanh thực sự đã nhận được ân huệ của thời gian sống, ân huệ của cuộc đời đáng sống và ân huệ của tình người đáng kính quý. Nói cách khác, người thơ đã có một thời để sống, một thời để yêu thương và một thời để viết (làm) thơ. Đó là hạnh phúc lớn nhất của một người phụ nữ làm thơ - Nguyễn Thị Lan Thanh.
3. Vĩ thanh
Tôi, người viết phê bình tập thơ Thắp lên nỗi nhớ của người thơ Nguyễn Thị Lan Thanh, nhân cơ hội không phải lúc nào cũng sẵn, đã tưởng tượng ra một cuộc đối thoại, xin ghi lại vắn tắt, ngõ hầu kết thúc bài viết của mình trong một dạng thức mới mẻ hơn, vui vẻ hơn, nhằm để chống lại những “xì- trét” (stress) mà đời sống đang ập đổ trên vai mỗi chúng ta hàng ngày, khiến nhiều khi đầu óc căng thẳng - thật là bất lợi cho những ai muốn kéo dài tuổi thọ, cải lão hoàn đồng, hồi xuân.
- Bùi Việt Thắng (BVT): Thưa nhà thơ Nguyễn Thị Lan Thanh, sau tập thơ thứ 14 Thắp lên nỗi nhớ, bà có ý định “rửa tay gác kiếm”, coi như người thơ đã “trả nợ” xong với nàng thơ?!
- Nhà thơ Nguyễn Thị Lan Thanh (NTLT): Tôi không dám đưa ra ngay câu trả lời dứt khoát “có”, hay “không” việc “rửa tay gác kiếm” như anh đã hỏi khó người được hỏi. Nhưng cuộc đời vẫn có nhiều cái “có thể” xảy ra ngoài ý muốn, nó đến như phải đến. Nghĩa là tôi có thể không viết hoặc sẽ tiếp tục viết văn (làm thơ). Vì thơ là sự thôi thúc nội tâm. Không thể không viết! Nếu anh và độc giả kiên nhẫn chờ đợi thì biết đâu, ngày một ngày hai, tôi lại sẽ tái xuất, với tập thơ thứ 15 chưa kịp nghĩ đến việc đặt tên. Ai đó nói chí lý, đôi khi chờ đợi cũng là một hạnh phúc (tuy có thể mong manh).
- BVT: Trân trọng cảm ơn nhà thơ Nguyễn Thị Lan Thanh. Ai thì không rõ, riêng tôi từ nhỏ đã rèn tập được tính kiên nhẫn. Hy vọng và tin tưởng sự kiên nhẫn của không riêng tôi sẽ được đền đáp xứng đáng. Tin tưởng, tại sao không?!
B.V.T