- Bác cho tôi hỏi nhà ông Nguyễn Văn Nên?
- Nên à, Nên nào nhỉ, ông ấy già hay trẻ?
- Dạ năm nay ông ấy chắc cũng phải sáu bảy, sáu tám đi bộ đội chống Mĩ về.
- À thế thì bác vào ngõ kia, đi khoảng một trăm mét cái nhà mà mép sân có cây
lộc vừng ấy.
Chú Tài cảm ơn rồi cho xe rẽ vào quán nước, uống ngụm nước chè, châm điếu
thuốc, chú Tài nghĩ, không biết ông ấy có còn nhớ đến ngày xưa không, cái ngày
“Trường Sơn khói lửa”. Nếu ông ấy không mặn mà thì về, đằng nào thì cũng là đi chơi thôi. Lâu quá cũng gần năm mươi năm rồi kia mà...
Đầu năm một chín bảy hai Tài nhập ngũ, sau ba tháng huấn luyện vào chiến trường, Tài về đơn vị có nhiệm vụ “Đánh địch bảo vệ đường tuyến”. Đầu tiên Tài nghĩ đáng nhẽ phải vào hẳn đơn vị chiến đấu ở miền Nam, chứ ở đây mới là vòng ngoài... Nhưng chỉ một thời gian ngắn, Tài đã được nếm mùi bom đạn, đã thấy được sự “ác liệt” của Trường Sơn. Máy bay địch thay phiên quần thảo, khả nghi là chúng giót pháo bất kể ngày đêm. Đơn vị Tài phải chia nhỏ len lỏi trong rừng, truy tìm thám báo, cứ phát hiện có bộ đội là chúng gọi máy bay hoặc là pháo kích. Hôm ấy nhóm năm người của Tài đi tuần do anh Dũng chỉ huy, buổi trưa đang ngồi nghỉ ở dưới gốc cây săng lẻ đồi “Mõm khỉ” (tên do lính ta đặt) bỗng Đạt vơ súng: “Anh Dũng có mùi thuốc lá”. Dũng ra hiệu mọi người tản ra, Đăng bỏ súng trèo lên gốc cây bứa già quan sát, tụt xuống rất nhanh vẫy mọi người, Đăng bảo: “Địch hướng mười giờ gần hang “Chồn” chỗ cây săng lẻ cụt, có hai thằng”. Dũng chột dạ cách đấy khoảng năm trăm mét là kho, chúng tìm thấy kho thì gay. Dũng hội ý nhanh với cả nhóm phương án đánh địch, rồi anh phân công: “Chia làm hai nhóm Tài với Đăng, Hoà với Đạt, nhóm trưởng là Đăng và Đạt, nhóm phải bám sát nhau. Các ông kiểm tra lại súng đạn, gùi, bao xe, giầy buộc chặt vào. Bây giờ tản ra, ăn cơm mười phút là phải xong đấy”. Tài mở gùi lấy nắm cơm có gói sẵn muối thịt xay bẻ ăn vội vàng, mở bi đông tu hớp nước, chùi tay vào quần, lên đạn khoá an toàn ngồi chờ. Dũng khom người lên trước, hai mũi của Đăng và Đạt rẽ ra hai bên tiếp cận mục tiêu. Lên được một đoạn thì thấy địch, Tài đếm khoảng chục tên đứa nằm đứa ngồi rải rác. Dũng đến từng mũi phân công phụ trách mục tiêu, nhóm Tài phụ trách tốp địch bên phải khoảng năm tên.
Súng nổ bọn địch chạy tứ tung ẩn náu vào các gốc cây vãi đạn ra như mưa, rồi chúng vừa chạy vừa bắn. Dũng hô “Truy kích” vì đoán chúng sẽ pháo kích, quả nhiên mấy phút sau đạn pháo nổ tứ tung. Hình như địch đã căn tọa độ sẵn, kinh nghiệm chỉ bám sát địch mới tránh được đạn pháo. Sau mấy tiếng rượt đuổi rừng già cây cối rậm rạp nhiều chỗ ẩn nấp, địch đông chúng vừa chạy vừa bắn lại xối xả, pháo chặn phía sau từng chặp. Đạt và Hoà đã bị thương, đến chỗ có mấy tảng đá to trước mặt, Dũng ra hiệu rẽ trái lên đỉnh đồi không đuổi theo địch nữa, cốt chúng ra xa khu vực kho là ổn, thể nào chúng cũng gặp quân ta phía đó. Đi được khá xa, Dũng ra hiệu dừng lại, cảnh giới, Dũng chọn một cây trèo lên quan sát. Chà, pháo địch làm gãy một vạt cây dài, nhóm của Dũng đã đi khá xa đồi “Mõm khỉ”, Dũng mở la bàn xác định phương hướng rồi tụt xuống. Dũng hội ý “Ta đã rất xa “Mõm khỉ”, bây giờ là ba giờ nếu tích cực thì hơn sáu giờ mới về đến đơn vị, vì Đạt và Hoà không đi được nhanh. Cánh tay trái của Đạt bắt đầu sưng, tuy chỉ bị phần mềm, còn Hoà bị sức ép của pháo nôn ra máu. Dũng lên trước dẫn đường, mỗi người cách nhau năm mét, vừa đi vừa đề phòng có địch. Xuống đến vạt đồi trống nhiều cây bị bom phạt ngọn đã mọc xanh. Phía dưới xen lẫn các bụi cây lúp xúp là sắn, nhiều sắn quá. Tài chợt thấy nhớ quê, nhớ các vạt sắn quanh nhà, nhớ cơm quanh năm độn sắn. Dũng bảo: “Các ông moi mỗi người hai ba củ thôi, đừng nhổ cả gốc không mang được lãng phí, để cho người sau”. Tài chọn một gốc rút dao găm bới, đất xốp củ sai mà to quá, Tài cắt một củ kéo lên, củ sắn chút chít dài đến bốn mươi phân. Tài bới củ thứ hai bỗng dao vướng vào một bọc ni lông dưới gậm gốc sắn, anh moi lên mở đến bốn lượt ni lông mới đến gói cuối cùng. Đó là một mảnh giấy xé ở sổ tay gập lại cuộn tròn, chữ viết nắn nót bằng mực Cửu Long, xem xong Tài gói lại cẩn thận đúc vào túi áo ngực như cất của quý. Mãi đến hơn bảy giờ nhóm Dũng mới về đến đơn vị, Đạt và Hoà được chăm sóc vết thương, cấp trên thông báo mọi người mới biết là bọn thám báo có mười hai tên chết ba tên, còn lại chúng kéo theo hai tên bị thương chạy sang phía rừng Lào.
Thời gian trôi đi thật nhanh, Tài đã trở thành một chiến sĩ lão luyện của Trường
Sơn, đã nhiều lần Tài được điều động đến chiến đấu ở các cung đường khác nhau, với các cương vị khác nhau. Chiến dịch Mùa xuân đại thắng, năm một chín bảy sáu Tài được phục viên, thương binh mất hai bảy phần trăm sức khoẻ.
Chú Tài dắt xe vào cổng dựng xe bỏ mũ, chủ nhà đi ra một thoáng bỡ ngỡ, chú
Tài hỏi:
- Anh cho em hỏi anh có phải Nguyễn Văn Nên?
- Vâng tôi đây, anh vào nhà.
- Trước anh có đi bộ đội chống Mĩ phải không?
- Vâng có chứ, đây mất bắp đùi trái. Uống nước đã.
Chú Tài nghĩ ông này cũng xởi lởi, dễ nói chuyện đây, có lẽ còn nhớ chiến trường
lắm, chú ướm tiếp:
- Hồi ấy anh có qua Trường Sơn không?
- Ồ lính hồi ấy anh nào chẳng qua Trường Sơn, vòng vo hơn hai tháng Trường Sơn tớ mới xuống đồng bằng kia mà. Trường Sơn tớ còn nhớ khối chỗ.
- Ở Trường Sơn có được ăn sắn không anh?
- Ối trời khối, bọn tớ còn trồng kia mà.
Chú Tài suýt reo lên “Đúng rồi”, chú thấy cay cay sống mũi, mở túi áo ngực lấy
ra gói ni lông nhỏ:
- Anh Nên, hôm nay em tìm anh là vì cái này.
Ông Nên trợn mắt, luống cuống tay run bắn, mở gói ni lông, mở tờ giấy, vơ vội
cái kính trên bàn thờ đọc nhanh. Ông Nên vất kính xuống lao ra đầu bàn ôm lấy chú Tài kêu to: “Chú ơi gần năm mươi năm rồi”. Hai ông xúc động nước mắt rơi lã chã. Bà Nên dưới bếp chạy lên không hiểu chuyện gì đứng nhìn mà cũng xúc động theo.
Ông Nên vỗ vỗ vào lưng chú Tài hỏi:
- Sao mãi bây giờ chú mới tìm anh?
- Vâng, vâng để từ từ em nói.
Quay ra thấy bà Nên, ông Nên bảo: “Bà đi làm cơm hôm nay có khách quý, rồi
chúng tôi kể chuyện bà nghe, gọi vợ chồng thằng Sơn sang, cả chú Hoằng nữa”. Hai ông ngồi tâm sự, chú Tài bảo “Em giữ nguyên gói ni lông cùng với mấy lá thư gia đình gửi, khi được ra quân về nhà đúc vào góc tủ. Cũng định đi tìm anh lâu rồi nhưng gia đình lại gặp sự cố, đến lúc đi được thì không biết gói ni lông đâu, mấy ngày trời tìm không thấy. Em mất hàng tháng cứ luẩn quẩn vì nó, lâu ngày tiếc nuối cũng nguôi ngoai, em không còn ý định đi tìm anh nữa. Mà cũng chẳng biết anh có còn không, lại không nhớ địa chỉ chính xác. Cho đến tận vừa rồi cái tủ lâu ngày bị mọt, thằng cu nhà em nó thay cái mới, phá tủ cũ ra thì thấy gói ni lông vẫn còn nguyên nằm lọt sâu trong kẽ tủ, em bảo đúng là trời xui đất khiến. Em vội nhờ người thăm dò biết đích xác anh còn em mừng quá”. Vợ chồng Sơn phóng xe máy về, rồi chú Hoằng sang, vợ chồng Sơn vào phụ mẹ bưng mâm. Mọi người ngồi đông đủ, cầm chai rượu ông Nên giới thiệu: “Giới thiệu với mọi người đây là chú Tài, quê Phú Thọ nhập ngũ đầu năm bảy hai ít hơn tôi hai tuổi, anh em biết nhau từ cuối năm bảy hai, hôm nay mới được gặp. Giới thiệu với chú Tài đây là vợ chồng cháu lớn, chú Hoằng hàng xóm đại tá về
hưu, ít tuổi hơn chú. Mọi người nâng chén nhâm nhi có ý chờ câu chuyện của ông Nên, sau tuần rượu thứ ba ông Nên kể: “Ngày ấy là tháng bảy năm một chín bảy mươi tôi vào Nam sau ba tháng huấn luyện, xe đưa đến Quảng Bình rẽ vào Trường Sơn sau đó là hành quân bộ leo rừng vượt núi. Vất vả lắm từ trạm nọ đến trạm kia có khi đi mấy ngày, liên tục bị máy bay dòm ngó, pháo bắn toạ độ, đơn vị nào sơ xuất chỉ để lộ một chút khói là hứng bom hoặc pháo hàng tiếng đồng hồ. Ngày đi đêm nghỉ lại phải canh chừng thám báo - bọn chỉ điểm rất nguy hiểm, nó là mắt của máy bay pháo kích địch. Lương thực, thực phẩm rất thiếu có binh trạm chỉ còn gạo, có binh trạm chỉ còn ít lương khô. Chúng tôi tận dụng mọi sản vật của rừng các loại củ, rau, măng. Vài lần chúng tôi tìm thấy cả bãi sắn các đơn vị đi trước đã trồng. Có chỗ sắn còn non có chỗ sắn đã lưu cữu mấy năm. Một nguyên tắc bộ đội phải chấp hành rất nghiêm là đào củ mài phải trồng dây trả lại, nhổ một gốc sắn phải trồng lại hai gốc, rau chỉ được hái không được chặt cành. Cấp trên quán triệt: “Đó là mình quan tâm đến đồng đội vào sau, là thông điệp cho những người đi sau”. Anh nuôi được phát nhiều loại hạt rau, đất chỗ nào có thể mọc được là họ vãi hạt lên “Cho đồng đội vào sau”. Do câu “Là thông điệp cho những người đi sau” lính chúng tôi nghĩ ra rất nhiều trò: khắc ngày tháng năm vào cây đóng cạnh gốc sắn, khắc chữ “Rau ngon” cạnh cây “Rau mì chính”, viết giấy gói vào ni lông treo vào gốc cây hướng dẫn chỗ có sắn... Tôi đã viết mấy dòng thư gói nhiều lượt ni lông vùi theo gốc sắn. Cứ nghĩ viết thế thôi chứ không hy vọng đến tay đồng đội, vì bom đạn bời bời ra thế... mà làm sao hai năm sau thì chú Tài tìm được”. Ông Nên đưa mắt nhìn chú Tài. Chú Tài mở túi áo ngực lấy ra gói ni lông đưa cho Sơn, Sơn cẩn thận mở ra rồi trịnh trọng đọc:
“Đồng đội ơi! Tôi đã trồng gốc sắn này, may mắn nó không bị pháo đào đi, có củ
đồng đội được ăn, đó là chiến trường gắn chúng ta với nhau, vào Nam tìm nhau nhé chúng mình kết nghĩa anh em, dù quê mình có xa đến mấy cũng được, nay mai còn về quê ăn cưới nhau nữa chứ. Xin chào Nguyễn Văn Nên thôn MT, xã MH, tỉnh Sơn Tây ngày mười tám tháng mười năm một chín bảy mươi”!
Cả mâm cơm lặng đi, bà Nên, vợ Sơn đã bật khóc thành tiếng.
T.Q.M