Do thế đất thuận lợi có núi, đồi và đồng bằng xen kẽ nên được người Việt cổ chọn làm nơi cư trú: nước ngập thì lên đồi núi kiếm ăn, mưa thuận gió hòa thì xuống đồng bằng gieo cấy. Nơi đây đã được Vua Hùng chọn làm đất xây dựng kinh đô của nước Văn Lang. Bạch Hạc còn lưu giữ biết bao truyền thuyết của thời đại Hùng Vương: nơi Tiên Ông đặt tên cho 100 người con của Lạc Long Quân, nay trên bến sông vẫn còn hòn đá hằn gót chân Tiên; nơi Sơn Tinh - Thủy Tinh thi tài xứng danh rể hiền; nơi ghi dấu hai anh em Thổ Lệnh và Thạch Khanh một bước qua sông... Nơi đây còn có nhiều di tích lịch sử văn hóa như hệ thống đền chùa Tam Giang, đình Bạch Hạc, đền Lang Đài, miếu Hà thần... và các lễ hội lớn như: hội bơi chải Bạch Hạc, hội thi giã bánh giầy làng Mộ Chu Hạ, hội đấu vật, lễ rước nước...
Ngã ba Bạch Hạc nổi tiếng bởi một vùng sông nước hữu tình, sầm uất trên bến dưới thuyền. Mỗi buổi chiều tà khi mặt trời đỏ ối lặn sau dãy núi Ba Vì, thì trên mặt sông các thuyền chài thả lưới đánh cá trong tiếng vọng vang của những làn điệu dân ca tạo cho Bạch Hạc trở nên một thắng cảnh nên thơ. Bạch Hạc là điểm đến hấp dẫn với các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể độc đáo, đặc sắc, cảnh quan thiên nhiên kỳ thú sẽ làm hài lòng du khách sau mỗi chuyến đi. Mỗi tên đất tên làng đều gắn với những truyền thuyết văn hóa đẹp của thời đại Hùng Vương.
Theo dòng lịch sử, danh xưng Bạch Hạc được hình thành dưới đời vua Lê Quang Thuận (1460 - 1469). Ngày 5 tháng 6 năm 1957, Chính phủ ra Quyết định số 240-TTg, cho sáp nhập Bạch Hạc với phố Việt Trì để thành lập thị trấn Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Ngày 4 tháng 6 năm 1962, Chính phủ ra Quyết định số 65 - TTg thành lập thành phố Việt Trì. Ngày 13 tháng 1 năm 1984 Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 10-HĐBT phân rạch địa giới xã, phường của thành phố Việt Trì; theo đó giải thể thị trấn Bạch Hạc để thành lập phường Bạch Hạc.
Bạch Hạc là vùng ngã ba sông nước Đà giang, Thao giang, Lô giang (còn gọi là Thanh giang); là nơi sản sinh ra những câu hát Ví mà trong dân gian quen gọi là Ví sông bến Hạc (có người gọi là Ví sông Việt Trì).
Ví sông bến Hạc gắn với con đò, ánh trăng và bến nước mênh mang sóng vỗ. Hàng năm vào dịp giữa mùa thu, trong những đêm trăng, từng tốp thanh niên nam nữ trên những con thuyền khác nhau, họ cùng ngồi gõ mạn thuyện, hát ví đêm trăng. Thuyền bên nam có trống và trước khi hát thì lại rung trống lên. Nam hát trước rồi nữ hát sau:
Nam: Sông kia nước chảy xuôi dòng
Kỳ này anh quyết làm quen với nàng.
Nữ: Cá xuôi, cá ngược tung tăng
Biết đâu cái, đực thả câu để tìm.
Nam: Nẻo xa thấp thoáng bóng trăng
Càng mong nhờ gió cát đằng xe dây.
Nữ: Sáng trăng sáng cả đêm rằm
Nửa đêm sà xuống, trăng bằng ngọn tre
Yêu anh yêu trọn câu thề
Để anh lơ lửng ngồi kề bóng trăng
Sự tình anh có thấu không
Tương tư ấp ủ trong lòng bấy nay...
Theo các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa thì hát Ví sông bến Hạc phong phú về nội dung, lung linh về hình thức, đa dạng về ngôn từ. Đó là kết quả của sự lưu truyền rộng rãi, lâu dài trong đời sống tinh thần của nhân dân. Họ là chủ thể của di sản, là người sáng tác, người trình diễn, lại là người thưởng thức, lắng nghe và thẩm định.
Lời ca Ví sông không có tiếng than thân, trách phận mà chỉ có tiếng hát trao tình gửi nghĩa, là tiếng chim “gọi đàn”, lời mời “kết bạn”, là phương tiện nối dải đồng tâm của những người lao động, một nắng hai sương với bến sông, đồng ruộng.
Về ngôn ngữ nghệ thuật, nó phản ánh tính đa dạng khi sử dụng tiếng Việt và các thể thơ dân tộc, tiêu biểu là thơ lục bát. Ví sông Việt Trì gắn con đò, sông nước với ánh trăng và trời xanh, mây trắng. Nó là thơ, là nhạc, là tình đời và tình người ở vùng kinh đô Văn Lang xưa:
Nhác trông đám Ví vui thay
Ai đem nam nữ đến đây kết nguyền
Em chào ông hơn tuổi ngồi trên
Em chào chúng bạn đôi bên mạn đò
Em chào các bác nam nhi
Đôi bên nam nữ ta thì ngồi chơi
Trên dưới em đã chào rồi
Còn chàng quân tử ngỏ lời thở than.
May chân bắt gặp một người
Răng đen cánh dán, miệng cười như hoa
Hỏi đường trung hiếu mẹ cha
Đã ai cất gánh hay là còn không
Gặp đây xin hỏi đào đông
Đã ai ngỏ ý chung lòng hay chưa?
Sáng trăng tỏ lắm anh ơi
Xin phép thầy mẹ ra chơi ngoài này
Cùng nhau trò chuyện giãi bày
Trăm năm ắt hẳn có ngày sánh đôi
Hỡi cô mà đứng bên rương
Mắt cô lúng liếng như gương bên tầu
Để anh trông mãi nhớ lâu
Biết rằng quê quán nàng đâu mà tìm?
Hai tay nâng lấy đọi đèn
Bấc này ta tạm làm quen với dầu
Nhẽ thì không dám thế đâu
Vải xô bọc lấy nhiễu Tầu nên chăng
Nhiễu Tầu bọc lấy giá gương
Cả chàng cùng thiếp ta thương nhau cùng.
Một mừng ai mở hội này
Hai mừng ta gặp nhau đây tự tình
Ba mừng vào đền, ra đình
Bốn mừng bác mẹ sinh thành đẹp đôi
Năm mừng giao ước một lời
Sáu mừng duyên phận bởi trời xui nên
Bẩy mừng gặp một bạn hiền
Tám mừng đôi tấm thề nguyền thuỷ chung
Chín mừng gặp khách quần hồng
Mười mừng kết nghĩa loan phùng từ đây
Chàng ở trên ấy làm chi
Xung quanh là núi tứ vi là đồi
Chàng về Bạch Hạc cùng tôi
Sớm thì đi học, chiều chơi đánh cờ
Thử vàng, thử lửa, thử than
Chim khôn thử tiếng, người ngoan thử lời
Lạ lùng ta thử nhau chơi
Họa là cá nước chim trời gặp nhau
Chim trời như thể miếng cau
Cá nước như thể lá trầu hỡi ai
Thử nhau vì nết vì tài
Ai thử hú họa vật nài vu vơ
Hỡi người quân tử thẩn thơ
Đừng thấy cá nước lại vơ chim trời
Một mình ăn hết bao nhiêu
Mà đi cấy sớm, cấy chiều cho đen
Mình em ăn hết chẳng nhiều
Nhưng em cấy sớm cấy chiều nuôi anh...
Hát Ví sông bến Hạc được tồn tại bằng truyền miệng. Khó khăn lớn nhất hiện nay là loại hình nghệ thuật dân gian này dường như đã bị mai một từ lâu. Những người còn tâm huyết với hát Ví không nhiều và hầu hết lại là người cao tuổi, trí nhớ bị mai một, sức khỏe hạn chế. Mặt khác công nghệ số ngày càng phát triển, thế hệ trẻ ít quan tâm đến loại hình nghệ thuật dân gian này. Rất cần những kết quả nghiên cứu về sự biến đổi của văn hóa, trong xu thế hội nhập toàn cầu và đặc biệt là trong thời đại bùng nổ công nghệ 4.0, 5.0 để bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc.
Thiết nghĩ sự góp mặt của hát Ví sông bến Hạc sẽ làm cho kho tàng văn hoá nghệ thuật dân gian thêm phong phú và đa dạng, không chỉ là nét bản sắc văn hóa của người dân Đất Tổ mà đang đặt ra cho các nhà hoạt động văn hoá giàu tâm huyết, các cơ quan chức năng và mỗi người dân luôn trân trọng, bảo tồn và phát huy những giá trị nhân văn để loại hình văn hoá phi vật thể này được khôi phục, đồng hành cùng dân tộc trên con đường hội nhập và phát triển.
Khi di sản văn hóa hát Ví sông bến Hạc được kế thừa và phát huy, tham gia vào hoạt động du thuyền trên sông tại điểm du lịch phường Bạch Hạc. Ngồi tựa mạn thuyền, du khách thả hồn mình vào không gian kỳ vĩ, ngắm cảnh để thưởng thức trọn vẹn vẻ đẹp của một vùng non nước “tụ thủy, tụ nhân” nơi ngã ba sông Hạc. Đã có nhiều tao nhân, mặc khách thả cả tâm tư và nỗi niềm của mình, hòa với vẻ đẹp của dòng sông để sáng tác những bản nhạc, câu thơ bất hủ. Còn nữa, khi đi du thuyền trên sông bạn sẽ thỏa thích check in những tấm ảnh đầy thơ mộng, mang đến cho du khách một cảm giác như được trở về với cuộc sống yên bình, một không khí trong lành cùng tiếng chim hót nhẹ nhàng trên cành cây Chiên đàn cổ thụ.
Đã có người nói rằng, đến Phú Thọ mà chưa thăm viếng Đền Hùng, chưa được nghe hát Xoan hay vừa nghe hát dân ca trên du thuyền bến Hạc, vừa thưởng thức ẩm thực dân gian Việt Trì thì xem như chưa từng đến Đất Tổ. Những câu hát Xoan, hát Ghẹo, hát Ví sông, Ví ống... đã đi vào tâm tư của người lữ khách thật sâu lắng, trữ tình. Thưởng thức những bài hát dân ca Phú Thọ trên sông bến Hạc là một điều rất tuyệt vời. Khi tà dương buông xuống cũng chính là lúc những ánh đèn trên cầu Việt Trì bắt đầu lấp ló. Thành phố đã lên đèn. Những âu thuyền mang theo những câu dân ca bắt đầu xuất phát. Nhẹ nhàng thướt tha trên dòng sông bến Hạc, những câu hát vang lên, du khách được hòa mình trong khúc dân ca, bồi hồi thao thức với vẻ đẹp mơ mộng của thành phố ngã ba sông.
Khách du lịch sẽ được vừa bồng bềnh trên những âu thuyền, lẳng nghe câu hát Ví, hát Xoan, hát Ghẹo..., vừa thưởng thức những món ẩm thực đặc sản vùng sông nước ngã ba Hạc như: cá Anh vũ, cá Lăng, cá Chép, cá Chiên, cá Ngạnh, cá Măng, cá Chạch làn, bánh Chưng, bánh Giầy, bánh Khúc, bánh Nẳng, hồng Hạc, bưởi Đoan Hùng, uống bát nước chè xanh Nghĩa Lĩnh... lại ngắm cảnh một trời non nước, sơn thủy hữu tình hay thả hồn trầm mặc trong nhịp chèo, sóng vỗ mạn thuyền sẽ thích thú biết nhường nào.
Du lịch văn hóa là xu hướng phát triển của Việt Nam. Nếu khai thác hiệu quả du lịch văn hóa, sẽ giải quyết được vấn đề đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước khi du lịch được xem là một ngành kinh tế mũi nhọn. Trong bất cứ địa hạt nào của văn hoá, du lịch đều xuất phát từ văn hóa truyền thống. Cái có sức hút lâu bền, thu hút đặc biệt du khách trong và ngoài nước chính là bản sắc văn hóa nội tại ở mỗi vùng, miền của đất nước.
P.B.K
* Tài liệu tham khảo:
1. Trần Quốc Vượng (2003). Văn hóa Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm; Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
2. Địa chí Vĩnh Phú - Văn hóa dân gian vùng đất Tổ (1986); Sở Văn hóa & Thông tin Vĩnh Phú xuất bản.
3. Nguyễn Thụy Loan (1993). Lược sử âm nhạc Việt Nam; Nxb Âm nhạc, Hà Nội.
4. Phạm Bá Khiêm - Chủ biên (2012). Tổng tập Về miền lễ hội cội nguồn dân tộc Việt Nam; Hội VNDG phối hợp Sở VHTT&DL tỉnh Phú Thọ xuất bản.
5. Kinh đô Văn Lang (Kỷ yếu hội thảo 2006) - Sở Văn hóa Thông tin & Thể thao Phú Thọ xuất bản.
6. Tài liệu kiểm kê DTLS tỉnh Phú Thọ năm 1964.