Tôi không bao giờ dùng ngòi bút của mình để tô vẽ cho những điều xấu xa, tồi tệ trở thành lộng lẫy. Chính vì tin và yêu cuộc đời này mà những sáng tạo của tôi đều phản ánh chân thực, sâu sắc, đôi khi cả sự khốc liệt của cuộc đời.
Trong bài “Cái lẫn trong thơ anh” tác giả Xuân Quang viết tặng anh nhân mừng thọ anh 70 tuổi có đoạn “Trịnh Hoài Đức là con người nhẹ nhõm, nhỏ thó và không điển trai lắm... Nếu như ai đó đã gặp anh, đọc thơ anh thì đều đồng ý với tôi rằng: Trịnh Hoài Đức là con người có biệt tài trên ngả văn chương, lại có người còn bộc bạch thốt ra; Trịnh Hoài Đức sinh ra để sáng tác kịch, làm thơ”. Trong lời tựa của tập thơ lục bát của Trịnh Hoài Đức, đồng nghiệp của anh không kiệm lời nhận xét: “Nhà viết kịch Trịnh Hoài Đức là người đa tài, đọc một biết mười, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào ông diễn thuyết cũng có sức thu hút người nghe một cách kỳ lạ... Trịnh Hoài Đức là người phản xạ nhanh, nhạy, ứng biến linh hoạt, sắc bén, xứng đáng xếp vào hàng những người thông minh. Còn nhà văn Xuân Thu - nguyên Phó Chủ tịch Hội LH VHNT Phú Thọ, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Đất Tổ đã khẳng định về Trịnh Hoài Đức: Ông đã khám phá ra cái hay, cái đẹp trong mỗi câu thơ. Thơ ông có nhiều câu thần bút. Ngôn ngữ giản dị tới mức bác học mà lung linh tỏa sáng tình người”. Ảnh hưởng thơ ca của Trịnh Hoài Đức khá sâu rộng trong công chúng, không chỉ những người yêu thơ, yêu kịch mà nhiều doanh nhân cũng cảm thấy lắng đọng khi đọc thơ của anh để rồi thốt nên lời “Thơ ông sâu sắc khiến người đọc bị ám ảnh khôn cùng” (Phạm Quang Nhuận - Phó Chủ tịch CLB Thơ Việt Nam tỉnh Phú Thọ). Riêng với tôi, tôi cũng có không ít những ấn tượng về anh. Tôi nhớ, năm gia đình anh về nhập gia tổ dân cư, khi đó Trịnh Hoài Đức mới ở tuổi “ngoài băm”, bút lực dồi dào, ngày nào cũng làm ra thơ và vài ngày anh lại cho ra một vở kịch, vở chèo. Có những buổi chiều anh thũng thẵng dắt con đi dạo, anh liêu xiêu đi trước, 4 quý tử (anh sinh con một bề toàn trai) trứng gà trứng vịt lốc nhốc theo sau. Con cái quấn quýt, đời sống vay nợ thiếu trước hụt sau vậy mà anh vẫn sáng tác được thơ. Ở bất kỳ hội nghị, hội thảo nào, bất kỳ cuộc họp dân phố nào có mặt anh, cứ nghe cái cách anh trò chuyện thì ai cũng bị lôi cuốn và hễ cứ có người đòi anh làm thơ là anh ứng khẩu tức khắc. Những vần thơ của anh, dung dị, mộc mạc rất đời thường, rất gần gũi. Bởi thế anh đã được bà con dân phố, người yêu thơ gọi anh bằng một cái tên khá ấn tượng là nhà thơ cực nhanh (về sau này khi công an tỉnh thành lập lực lượng phản ứng nhanh, bà con gọi anh một cách thân mật ngắn gọn hơn là “nhà thơ 113”). Có giai thoại ứng biến thơ của anh như sau. Một lần anh đến Cục thuế xin miễn thuế quảng cáo (Quảng cáo số trên tạp chí văn nghệ số Tết một năm mới có một lần mà có được bao nhiêu đâu, nên anh vẫn sang xin miễn). Lần này Cục trưởng Cục Thuế nghe tiếng anh ứng đối thơ nhanh mới đố anh đi quanh mấy bước chân mà làm được bài thơ liên quan đến xin miễn thuế thì sẽ OK. Anh nhận lời và ứng khẩu luôn...
Cố nhà thơ Nguyễn Đình Ảnh - nguyên Chủ tịch Hội VHNT Phú Thọ nhận xét về anh khi anh cho ra một tập thơ mới: “Trịnh Hoài Đức là nhà viết kịch tài ba nổi tiếng, một nghệ sĩ sân khấu đa tài đa năng vừa viết kịch bản, vừa có thể làm đạo diễn vừa là diễn viên sân khấu kể cả đóng phim. Trịnh Hoài Đức lại cũng là người thơ, anh cho ra một tập thơ lay động lòng người “Thả lên vòm nhớ”. Tập sách thú vị, sâu sắc, ngôn ngữ dung dị đến bác học mang đậm dấu ấn của Trịnh Hoài Đức. Thơ ông vừa có chất nghệ sĩ lại vừa hóm hỉnh, có thắt nút, mở nút kiểu sân khấu. Đọc thơ ông thấy xa xót, bùi ngùi, thấy ấm áp tình đời và tình người”...
Nhà văn Đỗ Xuân Thu - nguyên Phó Chủ tịch Hội LHVHNT Phú Thọ, nguyên TBT Tạp chí Văn nghệ Đất Tổ viết về Trịnh Hoài Đức một người anh cũng là đồng nghiệp của mình: ông thông minh, sắc sảo trời cho, thuộc lòng nhiều tác giả, khả năng ứng khẩu đâu ra đấy, với sự tinh tế trong thẩm định thi ca, khám phá ra cái hay cái đẹp trong từng câu thơ, trong mỗi tác phẩm. Ông làm khá nhiều thơ, đặc biệt là thơ lục bát của ông vào loại nhuần nhuyễn.
Thơ anh đề cập đến nhiều nội dung song không bao giờ thiếu hay lãng quên mảng đề tài về người mẹ, người phụ nữ Việt Nam. Trong tập thơ lục bát của anh xuất bản năm 2011 có bài “Lòng mẹ” được in trang trọng ở những trang đầu (chỉ đăng sau bài “kính cáo tổ tiên”), đây là bài thơ anh đã từng đọc trực tiếp cho tôi chép lại để đăng báo “Phú Thọ cuối tuần” nên tôi rất nhớ. Bài thơ có đoạn “Biết con còn thích ăn trầu/ Mẹ lo dậy sớm bổ cau để phần”... Tôi biết ăn trầu là sở thích của cả hai mẹ con anh. Anh bảo nhai trầu, mới ra thơ. Đợt anh bị bạo bệnh không ăn trầu hút thuốc, uống rượu được nữa. Thế nhưng sau khi uống thuốc nam lại thấy anh dậy nhúc nhắc đi lại, con trai anh còn khoe, bố cháu còn ăn trầu và hút cả thuốc lá. Cứ tưởng thuốc công hiệu đã thấy mừng. Ai ngờ đó lại là đốm lóe sáng cuối cùng khép lại cuộc đời anh. Ngày áp Tết Quý Tỵ tôi tới thăm anh, anh bảo: tớ hỏng rồi, đành đi trước bủ thôi (Mẹ anh khi đó đã vào tuổi 95 vẫn còn tỉnh táo). Vợ, con anh cố giấu anh về bệnh tình của anh, hòng để anh không quá lo lắng trước cái chết, thế nhưng qua điều anh nói với tôi mới thấy anh quá hiểu về căn bệnh vô phương cứu chữa của mình, chẳng vậy còn có những sự thể hiện lạc quan để trấn an vợ con. Gạt chiếc bát trong có lát bánh chưng tày, mấy miếng chả có lỗ sang một bên, anh bảo cậu con trai thứ tìm đĩa hát có các ca khúc hát về Trường Sơn mở to để nghe như muốn tìm lại một thời oanh liệt quá khứ. Anh chọn thời điểm ra đi vào ngày 3 tháng 3 năm 2013, khi ngày Quốc tế Phụ nữ cận kề.
Trò chuyện với tôi trước mấy ngày anh vĩnh viễn ra đi, Minh - con trai thứ hai của nhà thơ nói với tôi “Hơn một năm trước đây, bố cháu đã di chúc lại đầy đủ. Tiền bạc thì ông không có, song ông dặn mẹ con cháu đưa ông về quê (Thụy Vân) và nhớ trên mộ phải có bia tạc bài “bát câu kết”. Thế rồi Minh đọc cho tôi nghe nguyên văn bài thơ này như sau: “Đời là sắc sắc không không/ Đời thương ông bởi vì ông thương đời/ Dại chi mà chẳng dặn lời/ Bảy mươi xanh vẫn ngời ngời tứ thơ/ Mai sau dẫu có bao giờ/ Cũng không đến nỗi bất ngờ cháu con/ Thơ còn là ông vẫn còn/ Mong tình sống với nước non ngàn đời.
Cổ nhân có câu “sinh có hạn, tử bất kỳ” vậy mà anh đoán biết trước được ngày mình đi xa nên mới có sự dặn dò trước như vậy.
71 năm một cuộc đời, có 10 năm quân ngũ với tấm Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Nhì rồi đảm nhiệm các chức vụ quyền Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật, Phó Chủ tịch Hội đồng nghệ thuật, Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Đất Tổ, Phó Chủ tịch CLB thơ Việt Nam phụ trách các tỉnh phía Bắc và tạp chí của CLB, anh đã cống hiến trên 100 vở kịch, chèo được phát sóng truyền hình và phát thanh, sáng tác, đăng tải hàng ngàn bài thơ, các bài lý luận phê bình văn học, đoạt Giải thưởng Hùng Vương, nhiều Huy chương Vàng dành cho kịch bản, nhiều giải thưởng thơ về các đề tài, các kỷ niệm chương ghi nhận những đóng góp trong sự nghiệp văn hóa tư tưởng, văn học nghệ thuật, báo chí, văn hóa du lịch, sân khấu, thơ ca. Song có lẽ không phần thưởng nào quý giá hơn đối với anh, khi anh được coi là người của công chúng, “nhà thơ 113”.
T.L