Được cô giáo Trần Thị Hồng Hạnh, Tổng phụ trách dẫn chương trình giới thiệu, tôi mạnh dạn bước lên sân khấu. Từ trên cao nhìn xuống, một màu áo đồng phục, cổ quàng khăn đỏ ngồi xếp hình chữ S. Một chiếc bản đồ Tổ quốc Việt Nam, một dáng hình đất nước không bị chia cắt có được là nhờ sự hy sinh của bao đồng đội tôi trên khắp các chiến trường. Nhìn thấy các cháu hôm nay, cháu nào cũng đẹp, no đủ, được học trong một ngôi trường khang trang, sạch đẹp, tôi bỗng nhớ và kể câu chuyện cách đây 47 năm về trước.
Đó là chuyện của Đại úy Nguyễn Văn Thiệu với cô con gái nhỏ Nguyễn Bích Liên. Năm 1971, sau chiến dịch đường 9 - Nam Lào, chúng tôi được lệnh bàn giao pháo 130 cho các đơn vị phía Nam và được lệnh ra miền Bắc nhận toàn pháo mới để chuẩn bị cho chiến dịch Quảng Trị. Thượng úy Nguyễn Văn Thiệu, Chủ nhiệm Hậu cần của Trung đoàn Pháo binh 38 Bông Lau được lệnh ra Bộ Tư lệnh Pháo binh nhận quân hàm Đại úy và kế hoạch hậu cần cho Trung đoàn. Mọi thứ biên chế đều được tăng cường thêm khoảng 1,3 lần kể cả quân số, vũ khí, trang bị. Trông anh cao, gầy, đen, tóc xoăn nói giọng Quảng Nam, đúng là lớp cán bộ thế hệ Hồ Chí Minh của miền Nam tập kết ra Bắc. Về nhà, vợ nấu cơm gạo trắng nhất định không ăn, bắt phải độn sắn hoặc bột mì đúng theo quy định của Nhà nước. Cảm phục tính gương mẫu của người cán bộ cách mạng, gặp anh, chúng tôi hay tếu táo “Chủ nhiệm hậu cần người ta thì béo trắng sao anh lại gầy ốm thế?”. Anh cười bảo:
- Chủ nhiệm hậu cần đâu chỉ là cơm, gạo, đường, sữa mà bao thứ phải lo, kỹ thuật xe to, pháo lớn, đạn nặng toàn những thứ nuốt không trôi, với lại cái tạng người của mình nó như thế, có đổ sâm, đổ sữa cũng chả béo được.
- Vừa qua được ra Bắc công tác, anh có tụt tạt thăm chị và cháu được tý nào không?
- Trên đường đi công tác, đơn vị cho nghỉ 3 ngày, về thăm nhà gặp được con gái đang học lớp 2 còn nhỏ dại, đáng thương quá!
Anh kể tiếp:
- Nó cầm mấy tập giấy giang đen từ trường xồng xộc chạy về: “Ba! Ở trường con Liệt sĩ được mua giấy trắng con phải mua giấy đen đây nè”. Chắc nó nghĩ Liệt sĩ là danh hiệu vinh quang và cao nhất mà ba nó, Đại úy Nguyễn Văn Thiệu đi bộ đội đã lâu mà vẫn chưa phấn đấu được. Thương con đi học phải ngồi trong hầm vì chiến tranh, giấy vở cũng chẳng có, mình đành nói liều để động viên cháu: “Được, lần này đi ba sẽ phấn đấu Liệt sĩ để mày được mua giấy trắng!”.
Chúng tôi cười theo, rơm rớm nước mắt nhìn nhau chẳng biết ai trong số anh em ngồi đây ai “được hưởng” danh hiệu cao quý ấy trước. Chỉ cách đây vài ngày, Quốc Hùng người Hà Nội đã hy sinh khi rải dây điện thoại, bị pháo địch bắn. Phạm Bá Sĩ bộ phận tác chiến vẽ bản đồ, người Nghệ An hy sinh do B52 của Mỹ ném trúng Sở Chỉ huy của Trung đoàn. Dương “lém” người Hải Phòng ra ngã ba làng Cùa đón dẫn các xe chở đạn vào trận địa hy sinh do bom bi địch rải quá dày. Thiếu úy, Trung đội trưởng Nguyễn Huy Năng người Thái Bình, chỉ huy tổ đài luồn sâu trinh sát tình hình địch ở Đông Hà, Ái Tử. Tôi chỉ còn nhớ bức điện cuối cùng Chỉ huy Trung đoàn gửi cho anh “Tổ đài hoàn thành tốt nhiệm vụ, cho rút về ngay, đồng chí Năng nhận bổ nhiệm Đại đội phó”. Từ đó mất liên lạc đến giờ chúng tôi cũng chẳng biết các anh đã hy sinh như thế nào, chẳng còn ai sống sót để kể rõ chiến công của họ. Giai đoạn chiến đấu đầu tiên, chúng tôi có 03 tháng chuẩn bị, có sự giúp đỡ của công binh, dân công hỏa tuyến các đơn vị vận tải nên đủ đạn bắn, trận đầu chúng ta thắng lớn. Sư đoàn 304 giải phóng Ba Hồ, Động Toàn, cao điểm 544. Riêng Trung đoàn 38 Bông Lau bắn 2.000 viên đạn pháo 122 và 130 bức hàng Trung đoàn 56 ở Carroll và bắn 1.000 viên đạn pháo 130 vào trại biệt kích Mai Lộc, Lữ đoàn 147 phải bỏ chạy khỏi căn cứ ngày 02/4/1972.
Giai đoạn 2, chiến trường ngày càng khốc liệt. Dân công hỏa tuyến phải lùi về tuyến 2, nên mọi việc vận chuyển đạn dược đều do hậu cần của đơn vị có những lần bắn thử khi có đạn trúng mục tiêu cần cấp tập hỏa lực thì trận địa báo hết đạn. Đồng chí Trung tá Cao Sơn, Trung đoàn trưởng phải điện xuống các đơn vị đưa cả xe xích kéo pháo đi chở đạn và động viên lái xe: “Đồng chí nào chuyển được một xe đạn đến trận địa, đề nghị thưởng Huân chương chiến công”. Là Chủ nhiệm hậu cần, anh Thiệu không thể nằm hầm chỉ huy mà đôn đáo xuống các đơn vị động viên anh em lái xe dũng cảm chạy cả ban ngày (trước đây xe chỉ dám chạy ban đêm) để có đạn cho các trận địa pháo. Có lần anh như chết đứng khi nghe tin Thiếu úy, Bác sĩ Bùi Đức Hải, quê xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, Đại đội trưởng Quân y Trung đoàn báo lên: “Y sĩ Trần Văn Bộ chuyển thương binh về tuyến sau, xe quay về đi qua Động Ngô bị bom từ trường. Trong xe có cả dân công Thanh Hóa, tổng số 12 người, hy sinh tất cả”. Vừa thương xót, vừa lo nhiệm vụ tới, thiếu người, thiếu xe. Đặc biệt là dân công hỏa tuyến nhiệm vụ của họ chỉ ở tuyến 2 nhưng do tinh thần xung phong chuyển thương binh đã sơ cứu về tuyến sau, họ đã hy sinh cùng chiến sĩ của Trung đoàn 38. Máu của các chị, các anh, các em đã thắm đượm mảnh đất Hướng Hóa, Quảng Trị.
Đúng như lời anh nói “Chủ nhiệm hậu cần đâu chỉ là cơm, gạo, đường, sữa”. Đại đội 7 báo lên, sau khi di chuyển đến trận địa mới, đạn bắn không tập trung, anh kịp thời cử ngay đồng chí Tạ Quốc Phường, quê ở thị trấn Lâm Thao, Phú Thọ, Trợ lý quân khí Trung đoàn xuống kiểm tra và phát hiện ra giá lắp kính pháo bị va đập, khi chiếm lĩnh trận địa vào ban đêm, nên phải sửa chữa và quy chuẩn lại pháo.
Thế rồi vào một ngày tháng 7, một tin sét đánh, đồng chí Nguyễn Văn Thiệu - Chủ nhiệm hậu cần đã hy sinh, mảnh đạn cắt hết phần mông của anh, máu ra nhiều. Anh vĩnh viễn nằm lại tại chân cao điểm 105 huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Nghĩ đến lời ước hẹn với vợ và con gái Bích Liên, đến ngày giải phóng sẽ đưa gia đình về thăm quê nội, nước mắt tôi cứ nhòe đi, lời hứa với con gái Bích Liên “phấn đấu Danh hiệu Liệt sĩ” đã thành sự thực.
Thấy các cháu chăm chú nghe chuyện, tôi kể tiếp về trận Điện Biên Phủ trên không. Đó là lời tiên đoán của Bác Hồ: “Mĩ chỉ thua Việt Nam khi nó thua ở bầu trời Hà Nội”. Đó là câu chuyện của Thượng tướng Phùng Thế Tài, ông là Sĩ quan cận vệ bảo vệ Bác từ năm 1940, nay chuyển công tác. Ông mếu máo nói với Bác:
- Thưa Bác! Cháu bảo vệ Bác an toàn bao nhiêu năm. Cháu có khuyết điểm gì mà Bác không dùng cháu nữa, chuyển cháu đi nơi khác?
Bác nói:
- Có một nhiệm vụ quan trọng là bảo vệ bầu trời Hà Nội. Bác tin tưởng và cử chú làm Tư lệnh Phòng không Không quân.
Từ năm 1964, đồng chí Phùng Thế Tài đã ráo riết chuẩn bị cho trận quyết chiến này. Đặc biệt là phải bắn bằng được pháo đài bay B52, tên lửa Sam 2 là vũ khí chủ yếu. Ngoài ra, có một tổ phi công lái Mich 21 chuyên luyện tập bắn B52. Đó là các đồng chí Nguyễn Đình Rạng, Phạm Tuân, Bùi Thanh Liêm và Vũ Xuân Thiều.
Hội nghị Pari bế tắc do quan điểm không nhất quán. Mỹ tuyên bố dừng hội nghị, hăm dọa biến Hà Nội trở thành thời kỳ đồ đá và cho B52 ném bom. Thế là chiến dịch 12 ngày đêm bắt đầu ở Thủ đô thân yêu của chúng ta.
Trước khi đánh Hà Nội, Mĩ đã dùng B52 đánh thử Hải Phòng, ta chưa có kinh nghiệm nên để chúng thoát về (không hạ được chiếc B52 nào). Các phi công Mĩ họp báo: Các anh vào Hà Nội xem bắn pháo hoa, cắt bom xong về nhận Huân chương. Tên lửa Sam 2 với tầm bắn hiệu quả 9 km không thể bắn được B52 bay với độ cao 12 - 15km.
Nhưng chúng đã gặp một dân tộc kiên cường chiến đấu. Tên lửa Sam 2 của Việt Nam đã được thay nhiên liệu phóng, tăng công suất làm việc của rada lên 300w, đã nâng tầm bắn của Sam 2 lên gấp đôi. Các sĩ quan điều khiển tên lửa đã sáng tạo ra quy tắc mới, được ghi vào sách đỏ. Đó là cách tìm B52 trong dải nhiễu của màn hình rada. Mỗi tên lửa bay đi là một pháo đài bay B52 không thể trở về Mĩ, 34 chiếc B52 bị hạ, trong đó 30 chiếc do tên lửa Sam 2, 01 chiếc do pháo phòng không 100 ly bắn hạ. Không quân, đồng chí Nguyễn Đình Rạng bắn 01 chiếc ở Quân khu 4. Phạm Tuân bắn rơi một chiếc tại chỗ trên bầu trời Hà Nội và Vũ Xuân Thiều, người con của Hà Nội đã anh dũng hy sinh, hết đạn tên lửa anh đã lao cả chiếc Mich 21 vào chiếc B52 để bảo vệ Thủ đô thân yêu. Buộc người Mĩ phải mời phái đoàn của ta trở lại hội nghị và chính thức ký Hiệp định Pari ngày 01/01/1973 với điều khoản: Mĩ phải về Mĩ, còn các lực lượng Việt Nam tự giải quyết công việc nội bộ của mình. Tôi còn nhớ bài thơ chúc Tết của Bác Hồ “Mừng xuân 1969”: “Năm qua thắng lợi vẻ vang/ Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to/ Vì Độc lập, vì Tự do/ Đánh cho Mĩ cút, đánh cho Ngụy nhào/ Tiến lên chiến sĩ đồng bào/ Bắc Nam sum họp xuân nào vui hơn”.
Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 buộc người Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ công nhận chủ quyền của ba nước Đông Dương. Chiến thắng Điện Biên Phủ trên không 1972 buộc người Mĩ phải ký Hiệp định Pari rút toàn bộ quân đội Mĩ khỏi Việt Nam.
Trước các em hôm nay, tôi thật tự hào đã từng làm chiến sĩ của Quân đội Nhân dân Việt Nam, luôn nhớ đến lời dạy của Bác Hồ: “Quân đội ta trung với Ðảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Chia tay các em, tôi và đồng chí Tùng được các em vây quanh trìu mến xin chữ ký kỷ niệm. Các em đông quá, tôi chỉ kịp viết chữ S thay cho chữ ký. Đó là dáng hình Tổ quốc đấy các em thân yêu ạ.