Thực hiện chiến dịch tổng tiến công mùa xuân năm 1975 giải phóng thị xã Ban Mê Thuột. Trung đoàn 66 và lực lượng sư đoàn 10 cùng một lúc phải thực hiện hai nhiệm vụ: Nhanh chóng tiến công dứt điểm quận lỵ Đức Lập, quét sạch các căn cứ hành quân của địch từ Đức Lập đến Đăk Song. Đập tan tuyến phòng thủ phía Tây - Nam Ban Mê Thuột. Sau đó khẩn trương cơ động về phía bắc thị xã sẵn sàng cho trận đánh then chốt giải phóng Ban Mê Thuột và vùng lân cận.
16 giờ chiều ngày 08 tháng 3 năm 1975 tiểu đoàn 8 cùng lực lượng các hướng của sư đoàn lần lượt tiền nhập vào vị trí đã định. Đại đội 7 Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 66 được giao nhiệm vụ đánh chiếm căn cứ Đăk Săk.
Bỏ ba lô lại vị trí tập kết, mỗi người đem theo đủ cơ số đạn, vác gỗ trên vai chúng tôi hàng một tiến về phía đông.
Sẩm tối ra đến một vạt nương của dân, có ánh lửa bập bùng phía trước và mùi khét của khói. Anh Nguyễn Bá Tẩm (Quỳnh Hoàng - Quỳnh Phụ - Thái Bình) đại đội trưởng bảo: Dân đi làm nương mới về đó, đi thưa ra, bám theo mảnh giấy trinh sát cắm trên mặt đất ấy - Cúi thấp người xuống!
Đêm tối sẫm, chúng tôi bám theo nhau lùi lũi tiến về phía trước. Tiếng súng va vào gỗ lách cách, có tiếng quát nhẹ:
- Gần địch lắm rồi đấy! Khẽ thôi chứ!
Bỗng có tiếng đề pa khẩu cối bắn rất gần, chúng tôi đồng loạt nằm bẹp xuống mặt đất, tim tôi đập thình thịch, đội hình bị lộ rồi chăng?
Tiếng nổ bụp ngay trên đỉnh đầu, ánh sáng bùng lên, địch bắn pháo sáng! Tôi xếp bó gỗ dọc theo thân người phòng tránh mảnh đạn ngóc đầu nhìn về phía trước. Ánh đèn dù sáng trắng soi rõ đoàn người lồ lộ trên nương. Chúng tôi nằm im như chết, có ai đó thở hổn hển, tim tôi đập nghe rõ từng nhịp.
Pháo sáng tắt, chúng tôi lại vác gỗ trên vai, bước chân có vẻ gấp gáp hơn. Cứ như thế, có pháo sáng của địch chúng tôi nằm như dán xuống mặt đất, màn đêm buông xuống là người lính lại vội vã lên đường.
Giáp căn cứ địch là một bãi lầy, tôi vác bó gỗ trên vai, bò lên những thân cây dân phát nương chặt đổ trên bùn. Sang đến bên kia bãi lầy là hàng rào đầu tiên của chốt địch, trinh sát dò gỡ mìn, giao vị trí đào hầm cho từng tiểu đội.
Nhìn lên cứ điểm, hàng lô cốt đầu cầu xám xịt, thỉnh thoảng một băng đạn đại liên đỏ lừ lại từ trong cái hốc đen ngòm ấy tuôn ra lia sát hàng rào. Cái lũ này có lẽ thừa bom đạn và quá hèn nhát nên bất kỳ ở đâu chúng cũng bắn thị uy như vậy. Phía trong hàng lô cốt, một cái tháp canh cao lêu đêu im đậm trên màn trời sáng nhờ. Có mấy tàn lửa lập lòe trên tháp canh, không biết có bao nhiêu thằng lính gác.
Tổ dò gỡ mìn thì thào gọi nhau bò lên cắt rào kẽm gai. Không còn thời gian mà quan sát nữa, tôi tháo xẻng ra vội vã đào hầm.
Từng lượt xẻng nhẹ nhàng sắn vào lòng đất, anh Nguyễn Văn Mão (Tả Thanh Oai - Thanh Trì - Hà Nội) chính trị viên đại đội lấy bao cát ra cho tôi đổ đất vào rồi xếp phòng xung quanh hầm. Bên phải, bên trái tiếng đào đất lụp bụp, lắc cắc trong đêm nghe rõ mồn một. Ai cũng lo đào cho mình thật nhanh một cái hố để giữ chắc gáo. Anh Mão ném hòn đất sang hầm bên ra hiệu đào khẽ thôi.
Bỗng nghe cốc một cái, tiếng đề pa của khẩu cối rất gần, tiếng nổ khô khốc chát chúa tưởng như chúng đã nghe thấy chúng tôi vậy. Không ai bảo ai, tất cả cùng lao vào cái hốc đất chưa sâu hết một lượt xẻng. Có tiếng nổ bụp ngay trên đỉnh đầu, ánh sáng lại bùng lên, địch bắn cối sáng! Cùng một lúc, tiếng hút gió ghê người của đuôi quả cối rơi xuống. Tôi vớ luôn lưỡi xẻng che lên đầu, anh Mão đội bao tải cát, có ai đó rúc đầu vào kheo của tôi hơi thở nóng rực. Bịch! đuôi quả cối rơi trong hàng rào, nó mà trúng vào ai thì coi như toi mạng.
Ánh trắng sáng nhờ soi rõ chốt địch, xung quanh im lặng nghe rõ tiếng thở của người bên cạnh. Hết pháo sáng chúng tôi lại đào, lại khoét. Không biết mấy bố cắt rào và dò gỡ mìn trên kia như thế nào, vô phúc chạm nổ quả mìn bây giờ thì tất cả phơi lưng hứng pháo. Trên tháp canh có tên lính ngụy nào đó gọi nhau thay gác, tiếng miền Nam ngái ngủ lạnh ngắt tan vào khoảng đêm mông lung.
Một đêm không biết bao nhiêu lần tránh pháo sáng của địch. Hầm mỗi lúc một sâu hơn. Tôi bò sang tổ cắt rào giúp họ đào hầm. Gần sáng tổ cắt rào và dò gỡ mìn quay về, hơi lạnh từ người họ tỏa ra, áo quần ướt đẫm sương núi:
- Xong rồi, tổ gá bộc phá cũng gần ra đến hàng rào ngoài cùng. Rét quá!
Đúng 5 giờ sáng ngày 9 tháng 3 năm 1975 lệnh nổ súng.
Phía Đức Lập, tiếng nổ rền vang như sấm, pháo tầm gần, tầm xa của ta thi nhau trút bão lửa xuống đồn địch.
Phía chúng tôi, lệnh điểm hỏa. Tất cả bộc phá đồng loạt hất tung hàng rào kẽm gai, quét sạch mìn tạo thành con đường lên cửa mở. Cùng một lúc, đạn pháo và DKZ bắn thẳng của ta cứ vụt qua đầu thúc bung từng lô cốt trên cao điểm. Khẩu DKZ của đại đội 8 đặt bên kia bãi lầy tiếng nổ banh banh làm ù hết hai tai. Khẩu 12 ly 7 khóa chặt tầm, hướng đường đạn thẳng căng chui tọt vào lỗ châu mai của địch.
Khẩu cối 60 ly của đại đội tôi do Nguyễn Văn Bích tiểu đội trưởng (Yên Chính - Ý Yên - Nam Hà) cứ loong coong, cậm kịch từng quả nổ tung trên chốt. Không thấy địch phản kích, tôi bò sang tổ cối:
- Cho tôi bắn thử một quả xem sao!
Bích đưa ngay cho tôi viên đạn, quả cối láng bóng mũm mĩm hiền như chú thỏ non vậy.
- Này đạn đây! Đưa vào nòng đi! Vuốt xuôi tay xuống! Thế!
Kịch! tôi nhìn theo quả cối như một mũi tên bay lên trời, đến độ cao nhất định nó chúc đầu lao xuống gần một ngôi nhà lợp tôn sáng lóa. Tôi hạ thấp nòng hướng cho quả đạn bay đến ngôi nhà lợp tôn ấy, viên đạn hất tung mảnh tôn trên mái nhà, tiếng nổ chìm trong mớ âm thanh của đạn đại bác và cối 120 ly.
Phía quận lỵ Đức Lập, tiếng nổ rền vang, khói đen cuồn cuộn bay lên, tiếng liên thanh kéo từng băng dài, có lẽ ta bắt đầu tiến công.
Máy bay địch bu xung quanh Đức Lập ném bom, trực thăng phóng rốc két khói xịt ra từ hai bên sườn. Pháo phòng không của ta bắn trả, đạn 37 ly vàng chóe nổ bụp từng đụn khói trên trời. Đạn 12 ly 7 và pháo tự hành 14 ly 5 từ xe thiết giáp cuốn chặt từng chiếc máy bay, có một chiếc trực thăng trúng đạn đâm sầm xuống đất.
Sau 60 phút pháo binh ta bắn cấp tập, chúng tôi hồi hộp chuẩn bị xung phong.
Trung đoàn truyền lệnh xuống: Đại đội 7 giữ nguyên đội hình, tập trung đánh địch phản kích, pháo binh bắn kiềm chế chờ quân tăng cường đến sau đó mới đánh lên cửa mở!
Nghe đâu căn cứ Đăk Săk này có hệ thống hầm ngầm kiên cố, pháo binh ta bắn từ sáng đến giờ mà địch có vẻ lỳ lợm không có phản ứng gì. Trung đoàn sợ một mình đại đội 7 chưa chắc dứt điểm được nên cho đại đội 5 và đại đội 6 đánh Đức Lập xong sẽ quay về tập trung công kích.
Trưa, cái nắng đổ xuống, cửa mở, kiểu này anh nuôi không thể đem cơm và nước cho bộ đội ngoài chốt được. Chúng tôi đã nhiều lần tiến công địch trong công sự vững chắc nhưng chưa bao giờ bị kẹt trên cửa mở như hiện nay. Sau lưng là một bãi lầy và vạt nương trống trải không một bóng cây. Trên đỉnh đồi, hàng lô cốt của địch xám xịt với những lỗ châu mai đen ngòm sẵn sàng nhả đạn. Ngày xưa phơi lưng trên cửa mở như thế này cầm chắc ăn no rốc két của trực thăng và đội bom đội pháo của địch. Hôm nay chúng chỉ tập trung máy bay kể cả trực thăng bu lại phía quận lỵ Đức Lập. Đói, khát, bộ đội đành ăn lương khô và uống nước từ bãi lầy tanh đến lợm giọng.
Không thấy một bóng người trên chốt, Bích lom khom bò xuống bãi lầy lấy nước. Cái bố này chủ quan quá, địch phát hiện thấy cho một nhát thì sao?!
- Chúng nó chắc chạy hết rồi! Bích cười: Ông thấy có thằng ma nào thập thò ra ngoài đâu!?
Trời về chiều, nắng càng gắt, bộ đội thay nhau xuống lấy nước. Có lẽ chúng bỏ chốt thật, tôi cũng lom khom bò ra bãi lầy.
Trên cao điểm, lô cốt đầu cầu với cái lỗ châu mai thao láo nhìn xuống chân đồi. Rất gần, khoảng cách chưa đầy 30 mét, chỉ cần một băng đại liên là tôi ăn đủ. Nhiều khi nghĩ lại cho đến bây giờ tôi vẫn thấy rờn rợn.
Phía Đức Lập, hàng tốp máy bay vẫn cay cú dội bom, nghe đâu ta đã đánh chiếm căn cứ hành quân của Sư đoàn 23 ngụy và đang giải phóng nốt quận lỵ.
Khoảng 6 giờ tối, đại đội 5 và đại đội 6 cùng đại đội hỏa lực tiểu đoàn đến tăng cường. Chúng tôi chuẩn bị đánh lên cửa mở.
Sẩm tối, bộ đội bò lên nằm dọc theo cửa mở. Tôi cùng anh Tẩm nằm giữa đội hình. Lệnh cho tổ bộc phá lên đánh cường tập vào lớp hàng rào cuối cùng giáp lô cốt đầu cầu. Cối 82 và DKZ của tiểu đoàn bắn áp đảo lên cao điểm. Hai khẩu 12 ly 7 đưa từ bên kia bãi lầy sang lia sát sạt qua đầu chúng tôi. Ùng! Một khối lửa màu da cam trùm lên, đất đá rơi lộp bộp xuống đầu xuống cổ. Anh Tẩm hô:
- Trung đội một đâu! Cho bộ đội khẩn trương đánh chiếm lô cốt đầu cầu!
Quả bộc phá nổ cháy sang bãi cỏ gianh, bóng bộ đội loang loáng nhảy qua hàng rào kẽm gai vào chốt. Tôi xách súng, vai đeo túi cứu thương bò theo bộ đội. Bỗng từ trong lỗ châu mai lửa chớp liên hồi, địch bắt đầu phản kích. Tôi nằm bẹp xuống sườn đồi, sờ xung quanh đất mấp mô chẳng có hang hốc nào mà rúc cả. Cùng như một lúc, hai khẩu 12 ly 7 đồng loạt bắn vào lô cốt đầu cầu. Luồng đạn xanh biếc như những lưỡi gươm hút vào lỗ châu mai. Bỗng có tiếng hô từ trên cửa mở:
- 12 ly 7 thôi không bắn nữa! Chết hết bộ đội rồi!
Đạn nổ ù tai, lệnh truyền từ trên qua từng người mới đến khẩu 12 ly 7. Có ai đấy gọi xuống:
- Anh Hậu khẩn trương lên cấp cứu thương binh!
Chạy lên cửa mở, bộ đội nằm dọc theo sườn đồi, bên phải lửa cháy rát mặt. Tôi nhảy qua lớp rào kẽm gai còn sót lại nhiều khi dẵm cả vào đùi, vào lưng bộ đội nằm la liệt bên dưới. Lọt vào bên trong hàng rào, bộ đội cũng tràn lên cửa mở.
- Thương binh đâu? Ai đấy? Thằng Huấn hả (Nguyễn Văn Huấn - quê Hồng Kỳ - Sóc Sơn - Vĩnh Phúc). Bị vào đâu? Cho thương binh lại đây đi!
Tôi và một chiến sỹ nữa ôm Huấn đến một hố đạn đại bác cạnh lô cốt đầu cầu tránh lửa cháy đến thương binh. Sờ lên đầu hắn thấy máu chảy lênh láng. Băng xong đầu Huấn lại chỉ xuống kheo đùi. Hai viên đạn trượt qua mặt trong đùi phía trên đầu gối, máu ra ướt đẫm. Lột quần dài vứt đi, băng chặt vết thương lại tôi bảo Huấn nằm chờ tại chỗ để tôi báo cho vận tải cáng về phía sau.
Huấn là chiến sỹ đầu tiên lên chiếm lĩnh lô cốt đầu cầu. Đáng lẽ phải dùng bộc phá đánh vào lô cốt, nhưng Huấn lại đứng ở bên trong cửa ra vào bắn găm xuống. Bên dưới cửa mở, nhìn qua lỗ châu mai thấy lửa chớp liên hồi tưởng địch bắt đầu phản kích. Thế là 12 ly7 theo hợp đồng bắn lên. May mà không có ai hy sinh.
Bộ đội bắt đầu tảo trừ trận địa, tiếng lựu đạn nổ đanh gọn, tiếng bộc phá lục bục trong hầm, AK điểm xạ từng loạt, xung quanh lửa cháy rừng rực.
Tôi vào một ngôi nhà lợp tôn, nền nhà đào nửa chìm nửa nổi, anh Nguyễn Huy Lợi (Hoàng Hóa - Thanh Hóa) Chính trị viên phó tiểu đoàn cùng anh Mão đang chỉ huy bộ đội đánh phát triển vào bên trong. Tôi bảo chiến sỹ 2W điện cho trung đội vận tải lên ngay lô cốt đầu cầu cáng thương binh về phía sau.
Lại một kho xăng nữa bốc cháy, tiếng đạn nổ ùng oàng trong hầm, không thấy một thằng lính ngụy nào kể cả xác chết. Có lẽ thấy Đức Lập thất thủ, địch đã bỏ chốt chạy tháo thân từ trước rồi.
Anh Lợi nhắc anh Mão lệnh cho các mũi xung kích bảo vệ không để cháy kho chiến lợi phẩm, các mũi tiến công kết hợp chốt chặn không cho địch có cơ hội phản kích.
Quá nửa đêm, tiếng súng thưa dần, vừa đói vừa mệt, lúc này mới thấy khát cháy cổ. Chiến sỹ thông tin và công vụ Nguyễn Mỹ Đức (TP. Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc) lôi về mấy két hộp thịt gà và giò ba khoanh. Chúng tôi mở hộp ra, vừa bốc, vừa nhúp. Đào đâu ra bát đũa bây giờ!?
Sáng ra, toàn cảnh căn cứ Đăk Săk phơi bày trước mắt. những ngôi nhà bị đạn pháo bắn xiêu vẹo, tan hoang. Những lô cốt và ngăn hầm sụp đổ, lửa cháy nhem nhuốc khét lẹt mùi cao su. Bộ đội tiếp tục truy tìm hầm ngầm và thu gom chiến lợi phẩm. Nhìn về phía sau cứ điểm, những vạt rừng cà phê đang vào mùa nở hoa trắng xóa. Xa xa nhô lên đỉnh tháp chuông nhà thờ và mái tôn thấp thoáng dưới bóng dừa và hàng cây ăn quả. Anh Mão bảo đó là xã Đức Minh (nay thuộc huyện Đăk Mil - Đăk Nông). Giá như hiện hữu không phải là chiến tranh thì cuộc sống thanh bình và yên ả làm sao.
Căn cứ Đăk Sắk được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Sau 40 năm tôi trở lại thăm cứ điểm này, cây cối xanh tươi đã phủ lên dấu tích của lô cốt đầu cầu, của hàng rào kẽm gai và hầm ngầm cố thủ. Nhìn về phía sau chốt, một bãi lầy ngập tràn cỏ hoang lan ra con đường đất đỏ cuốn bụi mù mịt khi một chiếc ô tô chạy qua. Hướng tiền nhập của đại đội 7 là đây, tôi lại nhớ ngày nào đội quân vai đeo súng, vác gỗ leo qua thân cây với bùn trơn như mỡ. Bao nhiêu trận đánh bi hùng của những năm 1968, 1969 đã đi vào lịch sử, rất nhiều liệt sỹ còn nằm lại trên cứ điểm này. Ngày 09/3/1975 đại đội 7 chúng tôi cùng Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 66 Sư đoàn 10 đã xóa sổ căn cứ Đăk Săk, đập tan tuyến phòng thủ phía tây Ban Mê Thuột và giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Hôm nay căn cứ Đăk Săk ngập tràn dưới ánh nắng đầu hè rực rỡ. Mái nhà tưởng niệm cong vút uy nghi trên đỉnh cao điểm 722. Tấm bia đá ghi lại những chiến công của những người chiến binh quả cảm. Biết bao nhiêu người con ưu tú của tổ quốc đã ra đi và chiến công của họ thì ở lại. Chỉ có chúng tôi, những người lính cựu chiến binh còn sót lại sau chiến tranh mới thấu hiểu sự hy sinh, gian khổ và mất mát lớn lao vì tự do độc lập của Tổ quốc. Máu của họ đã nhuộm đỏ mảnh đất này, nhuộm đỏ ngọn cờ thiêng liêng đang bay phấp phới trên đỉnh cột cờ khu tưởng niệm, cho sự bình yên của Đăk Săk hôm nay.
H.K.H