II. Đôi hài cỏ lướt nhanh trên con đường sơn cước, bình minh vờn thung khe, dòng suối bạc lấp lánh. Mặt trời rực rỡ như bức tranh sơn mài tráng lệ. Núi mờ xa phớt tím quyện khí lạnh bồng bềnh từng mảng mây trôi càng khiến bước chân đại hiệp nhanh hơn. Thế mà cũng mãi tận đúng Ngọ ông mới bước chân vào đến chợ. Chợ sắp tàn, lá bàng đỏ rụng lả tả lối đi. Vài gã áo chàm hung hiểm đang đuổi theo một bé con chừng sáu tuổi. Con bé ăn mặc rách rưới, lơ phơ tóc trái đào nhưng không mất đi vẻ xinh đẹp anh tú hứa hẹn một mỹ nữ tương lai. Gã áo chàm cất tiếng thét như hổ gầm:
- Bé con. Đừng chạy nữa đứng lại theo ta về nhà. Mày mà không nghe ta thì sẽ mất mạng ngay bây giờ biết không.
Con bé luống cuống òa khóc. Đôi bàn chân tội nghiệp không biết chạy phương nào. Nó luẩn quẩn như gà con trước móng vuốt của diều hâu. Bàn tay gấu của lão người rừng sắp chộp được vào vai con bé thì nhanh như tia chớp đứa bé đã được bàn tay đại hiệp kéo vào phía sau lưng. Hụt mồi gã áo chàm rú lên một tràng thổ ngữ giận dữ rồi đưa bàn tay tung chảo về phía người đàn ông vừa cứu thoát con bé. Thanh trường kiếm trên vai đại hiệp được rút ra khí lạnh xanh buốt làm gã áo chàm lùi bước. Thanh kiếm múa tít ánh chớp ảo diệu như đường tuyết lê bảo vệ đứa bé. Hai gã thiểu số hoảng hồn khi bắt gặp cao nhân liền vội vàng tháo chạy. Đứa bé sợ hãi bám chặt lấy áo ông. Đại hiệp tra gươm vào vỏ. Bàn tay xoa đầu bé rồi trìu mến nhìn nó:
- Nhà con ở đâu? Sao lại bỏ chạy thế này? Ta sẽ đưa con về nhà.
Đứa bé mắt vẫn còn ngấn lệ ngơ ngác. Nước mắt giàn giụa khiến ông thương cảm. Hỏi gì nó cũng lắc đầu. Con bé đói mặt xanh lả. Ông vội vàng kéo nó vào quán chợ gọi hai cái màn thầu nóng hổi đưa cho nó. Đứa bé bớt sợ tay cứ bám chặt lấy áo ông. Nó buột miệng:
- Xin đừng bỏ con. Con không biết nhà ở đâu nữa. Con sợ lắm.
Tiếng nói run run tội nghiệp của con bé khiến ông mềm lòng. Một chút gì an nhiên như tình phụ tử trỗi dậy. Ông cởi chiếc khăn quàng của mình cuốn vào cổ cho con bé. Rồi dắt nó đi tới hàng giấy mực mua một cuộn giấy dó thật to, thêm dăm thỏi mực thơm, vài cây bút lông buộc chặt vào tay nải. Ông quay lại nhìn con bé. Đôi mắt to tròn còn óng nước của nó vẫn đeo bám và ghim chặt lấy người ông. Ông thở dài như cam chịu rồi dứt khoát tới các hàng chợ mua thật nhiều đồ cho bé thơ.

Trời đã ngả chiều. Gió núi ùa về hun hút. Tiếng hiệu ốc đang rúc liên hồi của một đồn lính xa xa. Nhìn đứa bé mệt mỏi lẽo đẽo theo mình đại hiệp không đành lòng liền tiến tới bãi bán ngựa chọn một con bạch mã thật đẹp. Con ngựa chợt quỵ xuống như vái lạy và tung vó hí vang mừng rỡ như gặp được chủ nhân. Sau vài lời mặc cả, đĩnh bạc trắng đã được lấy ra đặt vào tay chủ ngựa. Cầm lấy dây cương đại hiệp xốc cô bé lên ngựa. Con bé sợ hãi đu chặt lấy cổ ông. Tháo chiếc khăn lụa trong tay nải ôm quàng ngang người bé con. Con bé thiếp ngủ trong lòng ông trên lưng ngựa. Đường quan san hun hút. Gió biên thùy vù vù. Cái bóng trắng tuấn mã lao đi vun vút vượt qua ngàn lau xám lạnh. Hơi thở trẻ con vẫn đều đều trên lưng ông. Trăng như chiếc đĩa bạc tỏa ánh lạnh xuống rừng đêm. Con đường sơn cước gồ ghề khúc khuỷu. Đại hiệp thấy lòng mình ấm lại. Nỗi trống vắng cô đơn bao năm nay dường như dịu đi phần nào.
III. Con bé vẫn say ngủ trên lưng ngựa. Giấc ngủ muộn phiền mệt mỏi sau bao ngày lạc đường trốn chạy. Ngựa chợt hí vang, hang động mở ra. Hai hòn sỏi trong tay nải cũng được lấy ra cọ vào bùi nhùi tóe lửa. Ngọn đuốc trám được châm lên thơm hắc. Đại hiệp nhanh tay đốt đống lửa xua đi giá lạnh của quan san. Ông bồng đứa bé vào chiếc đệm cỏ và kéo tấm chăn đắp lên cho nó. Ánh đuốc chập chờn soi khuôn mặt thơ dại sớm mệt mỏi khiến ông chạnh lòng. Tiếng nấc mê làm lòng ông tê tái
Nỗi thương cảm ùa dậy xót xa trong lòng ông đứt nối suốt đêm trường. Tiếng tử quy khắc khoải ngoài trời đêm thê lương tê tái trong lòng chàng họa sư của đất kinh kì ngày nào.
Tiếng gà rừng từ thung xa vọng lại. Ánh ban mai xua đi bóng tối. Đống lửa cũng gần tàn được chất thêm củi nấu bữa ăn sáng cho đứa bé và ông. Con chim Cuông ngoài cửa hang chợt hót lên lanh lảnh. Con bé giật mình bừng tỉnh. Nó sợ hãi ngồi dậy khe khẽ kêu lên:
- Ông ơi! Con sợ.
Mỉm cười hiền từ đại hiệp trấn an đứa trẻ:
- Bé con đã dậy rồi đấy à? Con đói bụng chưa? Để ta lấy mật ong rừng con uống cho lại sức. Con ăn sáng nữa nhé!
Đứa bé đã đỡ sợ, nhìn ông và ngoan ngoãn gật đầu. Cầm nắm xôi nóng hổi trên tay nó ăn ngấu nghiến. Cái ăn của một kẻ đã bị bỏ đói bao ngày.
Nhìn khuôn mặt thanh tú của đứa bé giống người cung nữ ông yêu như hai giọt nước khiến ông càng chạnh lòng. Lời định cất lên lại câm nín gói vào tim. Nắng còn non nhưng đã ùa vào cửa hang nhảy nhót trên thềm đá. Nắng xua đi cái lạnh giá của đêm trường. Con bé lạ lẫm nhìn vòm hang lấp lánh ánh sáng, nhìn dòng suối bạc đang róc rách chảy dẫn nước vào máng. Đôi bé tay bé thơ xinh xắn háo hức động vào chiếc gùi xếp đầy những cuộn giấy và vật dụng mà đại hiệp mua ở chợ hôm qua. Con bé thích thú cầm cây bút lông lên ngắm nghía vuốt ve. Nó nhanh nhẹn đặt gọn gàng lên bàn đá. Mái tóc trái đào thấp thoáng đi lại trong hang cùng tiếng hỏi ríu rít khiến lòng vị họa sư ấm lại. Ông kéo con bé lại gần và cõng nó lên lưng đầy cưng chiều rồi nhẹ nhàng nói với nó:
- Từ nay đây là nhà của con nhớ không. Con hãy ở đây với ta. Ta sẽ bảo bọc cho con. Con nhớ đừng ra khỏi hang kẻo gặp phải kẻ xấu nhé. Ta đi đâu sẽ đem con đi theo.
Con bé ngoan ngoãn vâng lời trong cái nhìn trìu mến mà đầy yêu thương của họa sư.
Thời gian như thoi đưa, ánh trăng xanh lạnh lẽo của rừng đã nép vào mây thì mặt trời lại tỏa ánh sáng cho ngày mới. Họa sư cõng gùi trên lưng tay dắt theo con bé vào rừng. Ông chỉ cho nó những lá cây rừng ăn được, hái búp lá và dây leo về làm thuốc. Con bé đi vài buổi với ông mà đã nhập tâm nhớ tên những loại lá rừng có thể chữa bệnh được cho con người. Buổi chiều ông đặt vào tay con bé cây bút lông và kiên nhẫn dạy nó phảy nét chữ đầu tiên. Con bé sáng dạ háo hức thích thú khi được ông dạy viết chữ. Nét chữ vụng dại đầu tiên hiện lên trên mặt giấy khiến ông mừng rỡ. Khi họa sư bận việc thì bé con lại nhặt mẩu que nhỏ vạch lên trên đất những nét chữ mà nó đã học được từ đại hiệp. Nét chữ nó càng ngày càng hoạt. Đôi khi nó trầm ngâm bên ông hàng giờ ngắm từng nét họa trong bức tranh tuấn mã mà ông thể hiện trên giấy lụa. Bé con thỏ thẻ bên đại hiệp:
- Người dạy con vẽ tranh sen và con ngựa giống của người đi. Con thích lắm.
Họa sư ngỡ ngàng nhìn bé con thấy nó già hơn tuổi. Thiên tư sáng sủa bộc lộ rõ nét. Con bé chỉ vào bức tranh sen tàn ông vẽ trên giấy dó rồi thỏ thẻ:
- Ông ơi! Sao ông không vẽ hoa sen hồng và lá xanh ạ? Mà lại vẽ lá sen nâu tàn úa thế ạ? Ông không thích hoa tươi ư?
Họa sư mỉm cười độ lượng và chợt giật mình trước câu hỏi của con bé. Câu hỏi đó đã trùng hợp với câu hỏi mà nàng cung nữ đã hỏi ông nơi vườn thượng uyển năm nào. Chính bức tranh sen tàn đó đã làm nhà vua phật ý và cũng khiến ông thất sủng và phải dời khỏi hoàng cung. Vị họa sư tài hoa của chốn cung đình đã từng vẽ bao bức tranh đẹp như huyền thoại. Những con tuấn mã kiêu dũng trong bình minh, đàn hạc trắng xoải cánh lụa trong hoàng hôn đỏ thắm, bóng con thuyền lênh đênh trên khói sóng, gốc tùng già tắm đẫm ánh trăng bên suối bạc. Tranh của ông đẹp như cổ thi toàn bích làm đẹp lòng thánh thượng. Nhưng họa sư vẫn si mê bao kiếp sen tàn dãi trên màu nâu già trên giấy dó. Sen của ông nôn nao lòng người kẻ chợ. Ông không tìm sự tươi mởn của những khắc hoa hàm tiếu hay mãn khai, mà chọn lúc sen tàn, khổ hạnh, sen cam chịu và gân guốc, chút hết sinh lực chỉ còn cọng sen khô úa xác xơ. Nhưng lúc này nhìn dáng sen tàn khiêm nhường lặng lẽ, bao dung, không khoe khoang hãnh tiến, âm thầm ủ mầm sống dưới bùn sâu cho một hy vọng tốt tươi bật dậy cho một mùa sen tươi mới. Sen tàn mà vẫn tồn tại trong mưa gió rét mướt của mùa đông. Những bức tranh sen của họa sư đẫm màu thiền, nhưng không hề gợi lên sự ảm đạm thê lương mà vẫn luân hồi bật dậy phục sinh của kiếp thảo mộc rồi lan tỏa phúc sinh trong lòng người thưởng thức tranh sen. Bức tranh sen đẹp nhất được dâng lên thánh thượng nhưng lại bị tên xiểm thần chê bai là sự tàn úa chết chóc đã hiện lên trong bức tranh. Phải chăng họa sư muốn trù ẻo thánh thượng. Đây là tội khi quân phạm thượng. Cái án lơ lửng trên đầu khiến trong đêm họa sư tài hoa của triều đình đã phải bôn tẩu. Giang hồ hiểm ác từ đấy đã thu nhận thêm một kẻ mềm mại bút hoa giờ lại biến thành một tay kiếm lão luyện để hộ thân.
Mỉm cười trước câu hỏi ngây thơ của con bé. Ông lặng lẽ giảng cho nó hiểu về cái đẹp đẫm thiền và phúc sinh của bức tranh. Con bé chăm chú nghe. Đôi mắt trong như hai hồ nước của nó không chớp. Đôi mắt ấy ánh lên những khát vọng. Nó say sưa ngắm bức tranh sen và lặng lẽ cầm bút trải giấy trên thềm đá. Con bé tập vẽ trong sự khích lệ của họa sư. Bé con thông minh chỉ đâu biết đấy. Lòng họa sư ấm lại cảm giác như mình đã có truyền nhân. Con bé cứ dần lớn lên trong yêu thương và chăm chút của họa sư. Nhưng đêm trăng sáng bên bờ suối một già một trẻ luyện kiếm đến khuya. Đường kiếm của họa sư ảo diệu, kiếm pháp như chớp ảnh thì đường kiếm của bé con đã nhanh nhẹn linh hoạt và đầy thần thái. Búi tóc trái đào ngày xưa giờ đã mướt xanh. Má hồng rực thắm. Bé con xanh xao trốn chạy nơi góc chợ hôm nào đã bước vào tuổi trăng tròn. Đôi mắt mơ màng khi chiều buông và những vần thơ nàng thốt lên khiến họa sư cũng phải ngỡ ngàng. Tiếng đàn bên sương lạnh càng làm lòng họa sư vừa mừng vừa lo. Mừng vì tiểu đồng của ông đã tinh thông kiếm pháp, cầm kì thi họa. Những ông lo một mai cô bé cũng sẽ rời bỏ nơi này mà đi. Bởi ông nhìn trong đôi mắt chim câu ấy chứa đựng đầy khát vọng. Cứ hết hai tuần trăng ông lại xuống núi mua vật dụng cho mình. Ông mua thêm cả những vòng chỉ thêu và kim cùng lụa gấm cho tiểu đồng tập thêu thùa. Ông vừa làm cha vừa làm mẹ. Chiếc khăn tay thêu của tiểu đồng hình bông mẫu đơn làm họa sư xúc động. Tiếng ngâm trong vắt của tiểu đồng cất lên:
“Trù trướng giai tiền hồng mẫu đơn,
Vãn lai duy hữu lưỡng chi tàn.
Minh triêu phong khởi ưng xuy tận,
Dạ tích suy hồng bả hoả khan”
(Buồn rũ trước thềm cánh mẫu đơn,
Chiều buông đôi nhánh mới khô tàn
Sớm mai gió nổi bay đi hết,
Đêm tiếc hồng phai thắp nến xem)
Lời thơ là Bạch Cư Dị thương nhớ hoa mẫu đơn làm ông nao lòng. Hoa đến thì hoa phải nở. Mẫu đơn hồng tươi khoe sắc thắm rồi cũng tàn tạ theo gió mưa. Đời người chớp bể mưa nguồn vô thường mà thôi. Mười ngón tay ngà của tiểu đồng thêu trên khăn gấm. Đẹp tinh khôi mà vẫn ma mị khiến ông càng nhớ người xưa đến thắt lòng. Bỗng tiểu đồng đứng lên bước vào hang. Ông bỗng chạm vào một vật rơi ngay bên cạnh. Ông bần thần cầm lên xem. Ngỡ ngàng khi đó là một chiếc túi thơm thêu vầng trăng và con tuấn mã. Bên trong chiếc túi còn là sợi dây chuyền có gắn mặt ngọc phỉ thúy. Chiếc túi thơm vật gia bảo mà ông luôn nâng niu như báu vật bên mình bao năm đã được trao tặng cho nàng vào một đêm xuân khi hai người gặp gỡ. Có ai ngờ đó cũng là đêm xuân li biệt mãi mãi. Ngày họa sư trở lại tìm nàng thì thuyền xưa đã không còn trên bến cũ. Tao loạn khiến tim ông rớm máu vì người yêu ông mãi biền biệt. Chỉ biết rằng nàng cung nữ từng say đắm những bức tranh của ông đã bỏ trốn khỏi cung đình khi biết mình đã mang giọt máu của chàng họa sư tài hoa của đất kinh kì. Và nàng ra đi trong một đêm mưa gió. Mắt người đàn ông rớm lệ khi nhìn chiếc túi thơm và chợt nhận ra những nét thân thương trên khuôn mặt tiểu đồng. Ông lặng đi ngắm nhìn đứa bé giờ đã lớn mà tìm lại khuôn mặt của người xưa. Nỗi thương cảm ùa dậy xót xa trong lòng ông đứt nối suốt bao đêm trường. Chẳng biết giờ nàng phiêu bạt ở phương nao? Định mệnh trớ trêu trời già cay nghiệt. Họa sư ứa nước mắt nâng niu chiếc túi thơm trên tay. Tiểu đồng đã quay lại ngây nhìn những giọt nước mắt của họa sư. Tiếng nói nghèn nghẹn đầy xúc động cất lên:
- Cái túi và sợi dây ngọc này là có phải của con không?
Tiểu đồng vội vàng lên tiếng:
- Thưa vâng! Chiếc túi gấm này là kỉ vật của cha con tặng cho mẹ con. Mẹ con đã đeo vào cổ cho con và dặn luôn phải giữ bên mình để có ngày tìm được cha.
Nước mắt của họa sư đẫm gò má. Ông lấy ra miếng ngọc trong chiếc túi thêu hình con tuấn mã cùng vầng trăng. Chiếc túi và miếng ngọc bội giống hệt chiếc túi của tiểu đồng. Hai miếng ngọc khép vào nhau vừa như in. Ông nghẹn ngào nhìn tiểu đồng đang bối rối nhìn chiếc túi ông vừa lấy ra. Họa sư run rẩy trong nước mắt:
- Con ơi! Mười sáu năm trường hận ta đã đi tìm bóng dáng của mẹ con mà không gặp. Ơn Trời Phật nay cho cha con ta được trùng phùng. Ta chính là cha ruột của con.
Nước mắt của họa sư và tiểu đồng hòa quyện. Tình phụ tử như nước trường giang ùa dậy trong lòng ông. Tiểu đồng nghẹn ngào òa khóc gục đầu vào người cha mà bao năm nay cô không biết. Thời gian như chiếc khăn phủ lên bao thăng trầm. Thời gian mang khuôn mặt cũ kỹ. Lá đã rụng về cội. Hạnh phúc và khổ đau đã được đau đền bằng tình phụ tử trùng phùng.
IV. Bỏ thêm trầm vào lư hương. Khí núi quyện khói trầm ngọt ngát. Họa sư thao thức rồi lại ngồi dậy trải giấy lụa lên bàn đá. Ngọn bạch lạp chập chờn soi vách đá. Tiếng suối từ xa ngân nga vọng lại làm cho cảm hứng trong lòng họa sư dâng cao như nước triều đông. Đưa ngọn bút chấm vào nghiên mực họa sư phóng bút trên bức tranh ào ào như chớp giật mưa giông. Bức cuồng mã tung bờm đang hí vang. Nét bút đưa nhanh như phượng múa rồng bay. Con ngựa tung bờm tả xung hữu đột trên sa trường. Nét đẹp phi phàm của thần mã. Bỗng tiếng con chim Cuông lanh lảnh cất lên. Họa sư giật mình cảm như có ai đang nhìn trộm. Ông quay ngang bỗng gặp con gái quỳ xuống dưới bức tranh từ lúc nào. Tiếng con gái run run:
- Thưa cha. Bao năm nay con được cha dạy dỗ và dìu dắt, con cứ mơ ước sẽ vẽ được bức thần mã đẹp như cha. Nhưng hôm nay con đã ngộ ra một điều cái trác tuyệt mà trời ban cho ai thì người ấy được hưởng. Con có luyện thi họa cả đời cũng không được như cha. Con xin từ nay chuyên tâm làm đứa con gái ngoan và hiếu thảo của cha thôi ạ! Cái khát khao nhất là sao con tìm được mẹ của con.
Họa sư thương cảm nhìn con gái yêu và nhìn lại bức tranh. Cảm giác thần mã đang cất cánh bay lên. Và ánh mắt đau đáu tới não nề của người cung son lại ùa về thương nhớ trong lòng ông.
V. Một sớm xuân khi hoa đào khoe sắc thắm, gió đông lộng thổi trên cây nêu người ta gặp một ông già quắc thước có nét đẹp phi phàm đi cùng một thiếu nữ xinh đẹp. Hai cha con đi về bến đò Sơn Nam Hạ. Cỏ bờ đê ngơ ngẩn dưới dấu hài thiếu nữ. Ông lái đò chợt giật mình khi nhìn thiếu nữ miệng lẩm bẩm:
- Sao cô giống mẹ cô thế? Bà ấy vừa qua đó chừng nửa canh giờ thì cô lại xuống đò. Hai mẹ con không đi cùng với nhau ư?
Thiếu nữ ngơ ngác, còn ông già vội hỏi như sợ người ta biến mất:
- Xin cụ cho tôi hỏi người đàn bà mà cụ vừa nói đi về phía nào ạ? Mong cụ thương tình chỉ dùm chúng tôi xin đền ơn.
Ông lái đò cũng ngạc nhiên không kém vội trả lời:
- Bà ấy ở trong chùa bên bến sông kia. Bà ấy hay công quả cho nhà chùa. Nay thấy bảo đi mua thêm dầu và hương cho nhà chùa. Ông và cô cứ sang bên kia là gặp nhé.
Cha con người khách mừng rỡ cúi đầu cảm tạ. Bước chân của họ đi trên đê mà như đi về phía mùa xuân. Lòng họa sư tràn ngập một bức tranh sông nước. Phút tương phùng như réo gọi bước chân cha con họa sư. Người xưa ơi...
L.H.N