Buổi trưa ngày 19/01/1974, tại ngã tư kênh Năm Ngàn và kênh Bằng Lăng, thuộc trung tâm Vùng 4 - Kiến Tường (cũ), (nay là xã Tân Ninh, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An) - nơi đóng quân của Ban Chính trị, Trung đoàn 3, Quân khu 2 (cũ) (miền Trung Nam Bộ). Mấy anh em cán bộ và chiến sĩ cơ quan chúng tôi đang bàn luận về thông tin ngày 18/01/1974, quân giặc tiến công xâm lược quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Bỗng cấp trên giao nhiệm vụ cho tôi là Trợ lý tổ chức, đi cùng anh Nguyễn Văn Cư(*), sinh năm 1942, quê xã Đông Dư, huyện Gia Lâm, Hà Nội, là Trưởng Tiểu ban Tuyên huấn, xuống Tiểu đoàn 1, để nắm tình hình đơn vị sau trận đánh ngày 16/01/1974, tiêu diệt quân địch đóng đồn bốt ở ngã tư kênh 28 và kênh Bằng Lăng, thuộc xã Mỹ Thiện, huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho (cũ), (nay là tỉnh Tiền Giang). Anh Cư phụ trách chung đợt công tác này. Hai anh em chúng tôi nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh, dùng chiếc xuồng ba lá bơi đi trên dòng kênh Bằng Lăng, quãng đường dài gần 10km. Dọc đường đi, chúng tôi phải phòng tránh các loại máy bay L19 và trực thăng vũ trang trinh sát của địch, nên mãi xế chiều mới tới kênh 28, nơi Tiểu đoàn 1 vừa chiến đấu, đã giải phóng và nay chốt giữ. Sau khi làm việc với Ban Chỉ huy đơn vị, chúng tôi được biết tình hình tư tưởng của cán bộ và chiến sỹ, luôn an tâm, phấn khởi, tin tưởng và quyết tâm chiến đấu cao, sẵn sàng đánh địch tái lấn chiếm, để bảo vệ vùng giải phóng. Nhưng trong số anh em ta hy sinh, còn một trường hợp liệt sỹ Nguyễn Văn Sơn, sinh năm 1952, quê ở Hải Phòng, là y tá, bị trúng đạn địch khi đang bơi vượt qua kênh 28. Chỉ huy đơn vị bố trí cho anh Cư và tôi ở phía Bắc bờ kênh 28, trong một ngôi nhà dân đã đi sơ tán chưa về. Lúc 5 giờ sáng hôm sau, ngày 20/01/1974, anh Cư gọi tôi thức dậy, hai anh em chuẩn bị bồng đồ, súng đạn gọn gàng, sẵn sàng chiến đấu. Rồi anh bảo tôi:
- Anh ở nhà lo nấu cơm nước, ăn sáng. Còn chú bơi xuồng sang phía Nam bờ kênh 28, gặp Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 1, nhận nhiệm vụ phối hợp công tác trong ngày.
Khi tôi bơi xuồng ra đến giữa kênh 28, thì bất ngờ đụng phải một mảng lục bình lớn xô đến làm quay ngang mũi xuồng. Tôi cuống quýt dùng mái chèo gạt đám lục bình để thoát ra, bỗng đụng ngay phải một xác người trôi nổi lập lờ dưới mặt nước. Tôi giật mình hốt hoảng, nhưng kịp trấn tĩnh, dừng xuồng lại và đứng thẳng người lên để nhìn cho rõ hơn, đó là một người đàn ông ở tư thế nằm ngửa, chỉ mặc chiếc quần đùi màu đen có hai sọc đỏ ở hai bên. Tôi thoáng nghĩ tới trường hợp hy sinh của liệt sỹ Nguyễn Văn Sơn, y tá Tiểu đoàn 1 và nhớ tới kinh nghiệm dân gian, hôm nay là ngày thứ ba xác liệt sỹ Sơn sẽ nổi lên trôi về bến cũ. May mà đúng lúc tôi bơi xuồng qua, nếu chỉ nhanh và chậm hơn một ít phút thôi là xác liệt sỹ sẽ trôi đi mất. Tôi cho đây là điều linh ứng, nên vội quay mặt vào bờ và gọi to:
- Anh Cư ơi! Xác liệt sỹ Sơn, y tá Tiểu đoàn 1, đã nổi lên và trôi về đây này.
Mấy cán bộ và chiến sĩ của Tiểu đoàn 1 ở bờ kênh 28 phía Nam cũng nghe thấy tiếng tôi gọi, lập tức họ chạy ra, liền hô nhau xuống đầy ba chiếc xuồng bơi tới và đứng xoay quanh đám lục bình trước mũi xuồng tôi. Anh em cùng xúm lại, loay hoay tìm cách đưa xác liệt sỹ về bờ kênh 28 phía Bắc nhưng không được. Đúng lúc đó, tôi bỗng thấy có một chiếc xuồng máy từ hướng kênh Ngã Sáu lướt tới. Trên xuồng là một cô gái trẻ, khoảng 20 tuổi, khuôn mặt trái xoan xinh đẹp, đầu đội chiếc nón trắng, mặc áo bà ba màu hồng, quần lụa đen, đang ngồi điều khiển chiếc xuồng máy. Cô nói:
- Mấy ảnh phải dùng cách này nè!
Nói đoạn, cô gái nhảy tùm xuống dòng kênh 28, dùng hai bàn tay lùa dưới xác liệt sỹ Sơn nâng lên và hô lớn:
- Nào! Mấy ảnh cùng xuống nước đi, nhào zô đỡ dùm em đưa xác liệt sỹ lên bờ kênh, heng!
Từ lời nói thể hiện đầy tình cảm trân trọng, yêu thương và hành động quả cảm của cô gái trẻ đã có sức hút mãnh liệt anh em chúng tôi lúc đó. Đến lúc nghe tiếng máy Cole nổ giòn, tôi mới nhận ra, nhìn theo cô gái và xúc động nói:
- Thay mặt anh em đơn vị, anh xin cảm ơn em nhé!
Cô gái ngước nhìn tôi với đôi mắt buồn ngấn lệ, đỏ hoe vì chưa nguôi cơn xúc động. Rồi cô đáp giọng nhỏ nhẹ, khiêm tốn:
- Dạ! Không có chi... Tình cảm quân với dân như cá với nước mà anh.
Chiếc xuồng đã ra đến giữa dòng kênh 28, tôi sực nhớ ra điều hệ trọng còn chưa được biết tên và địa chỉ của cô gái, nên liền hỏi với theo:
- Này cô gái ơi!!! Nhà em ở đâu??? Em tên là gì???
- Dạ! Nhà em ở Cái Bè... Tên em là “Dân Cái Bè”... “Dân Cái Bè”... nha anh.
Sau chiến thắng lịch sử ngày 30/4/1975, anh Cư rủ tôi và các anh em trong đơn vị, đã nhiều lần về vùng Đồng Tháp Mười để thăm chiến trường xưa. Chúng tôi luôn quan tâm tìm kiếm cô gái trẻ ngày ấy có tên là “Dân Cái Bè”, nhưng chưa gặp được. Đồng bào địa phương hướng dẫn chúng tôi hãy nhắn tin lên các đài, viết bài in trên các báo, may ra sẽ tìm được cô gái ngày xưa ấy, trong số hàng vạn phụ nữ huyện Cái Bè cùng trang lứa hôm nay.
Trung đoàn 3 chúng tôi tiếp tục những tháng ngày chiến đấu đầy hy sinh gian khổ, để xây dựng và bảo vệ căn cứ giải phóng Vùng 4 - Kiến Tường (cũ). Buổi chiều ngày 12/4/1974, tôi được cấp trên giao nhiệm vụ đi xuống Đại đội vận tải (C22), để kiểm tra công tác tu sửa các ngôi mộ Liệt sỹ của đơn vị, đã hy sinh trong trận đánh ngày 06/4/1974, chống địch càn quét lấn chiếm kênh Cà Nhíp (nay là xã Nhơn Ninh, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An), được chôn cất tại Nghĩa trang Liệt sỹ ở ngã tư kênh Năm Ngàn và kênh Tài Lòn. Sau đó, tôi sẽ cùng Ban Chỉ huy C22 tổ chức đón tiếp và hướng dẫn các thân nhân gia đình liệt sỹ Nguyễn Bé Năm, sinh 1943, quê ở huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, nguyên là Đại đội phó Đại đội 12,8 ly (C18) súng phòng không, đã anh dũng chiến đấu hy sinh trong trận đánh đó.
Trên quãng đường dài gần 4km, tôi đi bộ dọc bờ kênh Năm Ngàn và suy nghĩ mông lung. Sau 8 năm (1966 - 1974) Trung đoàn chúng tôi vào Nam chiến đấu, đã có bao cán bộ và chiến sĩ hy sinh. Nhưng vì hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, nên chưa bao giờ được đón tiếp thân nhân gia đình Liệt sỹ tới thăm viếng mộ Liệt sỹ. Đây có lẽ là trường hợp đầu tiên, nên cấp trên rất quan tâm lo lắng, chỉ đạo công tác tổ chức đón tiếp và thăm viếng chu đáo, đảm bảo đúng với chế độ chính sách và an toàn tuyệt đối.
Nhờ được cấp trên gọi điện thoại thông báo trước, nên khi tôi tới nơi đã thấy Đại đội trưởng C22 Nguyễn Văn Phái, sinh năm 1938, quê xã Vĩnh Lại, cùng huyện Lâm Thao, tỉnh Vĩnh Phú (cũ), (nay là tỉnh Phú Thọ), đứng đón chờ tôi ở bờ kênh, rồi anh vồn vã bắt tay chào hỏi và vui vẻ cho tôi biết:
- Dù đơn vị anh nhận lệnh rất gấp, nhưng sáng nay anh đã tổ chức C22 kịp thời đào đắp đất tu sửa xong 12 ngôi mộ liệt sỹ ở đây. Trên các ngôi mộ đều có cắm bia, bảng ghi rõ thông tin họ và tên, năm sinh, đơn vị, quê quán và ngày hy sinh của các liệt sỹ. Rồi đón tiếp chu đáo 2 chị là vợ và em gái liệt sỹ Nguyễn Bé Năm. Nay anh chờ chú xuống kiểm tra xong, sẽ mời họ ra thăm viếng mộ liệt sỹ.
Tôi truyền đạt với anh Phái về ý kiến chỉ đạo của cấp trên. Rồi anh cùng 10 chiến sĩ mang theo vũ khí, súng đạn, đưa tôi ra kiểm tra Nghĩa trang Liệt sỹ cách đó hơn 100m. Đây là khu đất trống, trên bờ một đìa cá của nhân dân địa phương, do chiến tranh nên lâu nay đất bỏ hoang hóa, mọc đầy cỏ lau lác, nay được C22 phối hợp với nhân dân ấp kênh Cà Nhíp, lựa chọn cải tạo thành Nghĩa trang Liệt sỹ. Tôi hiểu, vùng đất Đồng Tháp Mười về mùa khô, nắng nóng, làm lớp đất mặt bị chai cứng, nứt nẻ, nhưng sâu xuống khoảng 0,50m đất vẫn toàn sình lầy nước đọng. Do đó, các ngôi mộ liệt sỹ chôn cất ở đây đều rất nông, chủ yếu là lấy đất đắp nổi, cao, to bên trên. Tôi kiểm tra và cho anh em thắp hương, cắm những hoa sen và chắp tay cúi đầu vái lạy trước anh linh các liệt sỹ. Rồi cho anh em về đón các thân nhân gia đình liệt sỹ Nguyễn Bé Năm ra thăm viếng mộ liệt sỹ.
Chính trị viên Đại đội C22 Bùi Quang Hào, sinh năm 1942, quê xã Đỗ Xuyên, huyện Thanh Ba, cùng tỉnh Vĩnh Phú (cũ), (nay là tỉnh Phú Thọ), giới thiệu với tôi 2 người phụ nữ đứng sau anh. Tôi thoáng cảm nhận 2 chị đều xấp xỉ 30 tuổi, gương mặt phúc hậu, nước da trắng, lưu dấu một thời xuân sắc của những người con gái miệt vườn xứ dừa Bến Tre. Họ có dáng người thon thả, nhanh nhẹn, trong bộ đồ bà ba màu đen cũ bạc phếch, đầu chít khăn tang trắng, mái tóc búi tó gọn gàng sau gáy, cổ quấn chiếc khăn rằn, nhìn tôi với đôi mắt mọng nước, đỏ hoe và thể hiện nỗi khổ đau tột cùng trong lòng mỗi người. Chị đứng trước là chị Năm, vợ của liệt sỹ, vẻ nhiều tuổi hơn, tay xách chiếc làn nhựa bên trong đựng đầy đồ lễ. Chị đứng sau là chị Sáu, em gái của liệt sỹ, tay cũng xách chiếc làn nhựa để đồ lễ nữa. Anh Hào nói tiếp:
- Sau ngày anh Bé Năm hy sinh, gia đình các chị đã được cơ sở địa phương ở đây tìm cách báo tin và giúp đỡ để thực hiện được chuyến thăm viếng này. Nay gia đình có nguyện vọng đề nghị đơn vị tạo điều kiện cho các chị đưa thi thể liệt sỹ về an nghỉ ở quê hương. Nhưng tôi đã trả lời với các chị do hoàn cảnh chiến tranh, nên đơn vị chưa thể đáp ứng được nguyện vọng đó, mong gia đình hết sức thông cảm. Hơn nữa, đến ngày toàn thắng, đất nước hòa bình, thống nhất, tất cả các ngôi mộ liệt sỹ của các đơn vị nhỏ lẻ như thế này, sẽ được tổ chức cất bốc, di dời, quy tập vào Nghĩa trang Liệt sỹ chung của địa phương, để nhân dân ta đời đời thờ phụng, tưởng nhớ công ơn.
Tôi chưa kịp nói lời chào hỏi, thì đã thấy 2 chị xăm xăm bước tới ngôi mộ có gắn tấm biển gỗ ghi tên liệt sỹ Nguyễn Bé Năm. Rồi họ cùng ngã vật xuống đất, choàng tay ôm lấy ngôi mộ và khóc.
Lúc lúc 5h sáng hôm sau, ngày 13/04/1974, tôi thấy người chiến sỹ canh gác của C22 hốt hoảng chạy vào báo cáo với Ban Chỉ huy đơn vị:
- Đêm qua, chúng em đứng gác, phát hiện thấy có ánh đèn pin ở Nghĩa trang Liệt sỹ. Nhưng do chủ quan, cho là ánh đèn đó của người dân đi soi cá như mọi đêm, nên sáng nay chúng em ra kiểm tra, mới thấy ngôi mộ liệt sỹ Nguyễn Bé Năm có vết mới chắc là dấu vết do chị em người phụ nữ kia để lại!...
Thời gian đã 46 năm trôi qua (1974 - 2020), từ quê hương Phú Thọ, tôi viết lại những kỷ niệm chiến đấu sâu sắc này, để bày tỏ lòng kính phục, biết ơn và mong ước được gặp lại những người phụ nữ có tên trong bài viết. Hình ảnh các má, các chị, các em ngày xưa ấy, vẫn lung linh sáng mãi trong tâm hồn tôi, để giúp tôi không ngừng tu dưỡng, phấn đấu và rèn luyện, giữ gìn phẩm chất cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”, suốt đời chiến đấu hy sinh vì nước, vì dân.
B.N.Q