Tỉnh Hưng Hóa được thành lập năm 1831 vào thời Nguyễn trên cơ sở trấn Hưng Hóa của thời Lê, bao gồm phần lớn đất đai của tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang, Lai Châu và Sơn La ngày nay. Tỉnh lỵ đặt tại làng Trúc Phê, huyện Tam Nông (thị trấn Hưng Hóa ngày nay). Trong tiến trình lịch sử, Hưng Hóa là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và quân sự của một vùng đất rộng lớn miền Tây Bắc. Chính vì vậy mà tỉnh lỵ Hưng Hóa được nhà Nguyễn xây dựng một công trình quan trọng, đó là thành Hưng Hóa và cột cờ Hưng Hóa.
Thành Hưng Hóa hay còn gọi là Thành Trúc Phê do một kỹ sư người Pháp tên là Vôbannd (1663 - 1707) thiết kế, được xây dựng vào năm 1842 (Triệu Trị thứ 3). Thành có hình vuông, theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, mỗi cạnh dài 360m, cao gần 0,5m, rộng gần 9m và sâu 2,8m, có 4 cửa. Lúc đầu thành được đắp bằng đất, năm 1882 được xây bằng đá ong. Hiện nay thành Hưng Hóa không còn nữa mà chỉ còn dấu tích của đá ong.
Cột cờ Hưng Hóa được xây dựng tại trung tâm thành Hưng Hóa vào năm Thiệu Trị thứ 3 (1842) có kiến trúc dáng dấp cột cờ thành Nam Định và Hà Nội. Đế lớn Cột cờ hình vuông, rộng 17,52m, cao 2,4m, Đế nhỏ Cột cờ hình vuông rộng 1 l,4m, cao 3,1m. Thân Cột cờ hình bát giác, bên trong có 55 bậc, cao 18,34m. Tổng chiều cao cột cờ là 23,84m. Năm 1947 với chủ trương “tiêu thổ kháng chiến”, nhân dân xã Hưng Hóa đã tháo dỡ cột cờ để thực hiện “vườn không, nhà trống”. Sau năm 1954, nơi đây là nơi Lữ đoàn 543, thuộc Quân khu 2 đóng quân. Được sự đồng ý của Bộ Quốc phòng, Bộ Tư Lệnh Quân khu 2 và UBND tỉnh Phú Thọ, UBND huyện Tam Nông đã tiến hành phục dựng lại trên nền móng Cột cờ Hưng Hóa cũ, hoàn thành vào ngày 25/11/2009 và được UBND tỉnh Phú Thọ công nhận là Di tích lịch sử văn hóa. Cột cờ Hưng Hóa, thành Hưng Hóa là biểu tượng hùng thiêng của người dân tỉnh Hưng, là niềm kiêu hãnh của nhân dân Tam Nông nói riêng và Phú Thọ ngày nay nói chung. Cột cờ và thành Hưng Hóa sở dĩ đi vào lịch sử bởi nó gắn liền với phong trào Cần Vương của cha ông ta chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp, nơi gắn liền với tên tuổi của nhà yêu nước, danh nhân văn hóa, nhà thơ Nguyễn Quang Bích.
Nguyễn Quang Bích (tự là Như Phong) sinh ngày 08 tháng 04 năm Nhâm Thìn (tức 07/05/1832). Ông mất ngày 15 tháng Chạp năm Canh Dần (tức ngày 24/01/1891) ở núi Tôn Sơn, xã Xuân An, huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ. Hiện nay, dòng họ đã đưa hài cốt về quê ông ở Trình Phố, huyện Trực Định, phủ Kiến Xương (nay là huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình).
Là người học rộng, tài cao. Năm 26 tuổi (1858) Nguyễn Quang Bích thi đỗ tú tài; năm 29 tuổi (1861) ông đỗ cử nhân và được bổ nhiệm làm Giám Thụ Trường Khánh; năm 37 tuổi (1869) ông đỗ đầu kỳ thi Đình và được phong tặng Đệ Nhị Giáp Tiến sỹ (tức Hoàng Giáp) và được bổ làm quan ở nhiều nơi như Tri phủ Lâm Thao, Án sát Sơn Tây, Tửu Quốc Tử Giám ở Huế... Năm 1875, Triều đình Huế cho xây dựng doanh Điền Hưng Hóa để làm nơi phòng thủ Bắc Kỳ. Nguyễn Quang Bích được chuyển ra Bắc làm Chánh sứ Sơn phòng Hưng Hóa và kiêm chức Tuần phủ Hưng Hóa. Hưởng ứng chiếu Cần Vương, Nguyễn Quang Bích được vua Hàm Nghi phong làm Thượng thư Bộ Lễ kiêm Hiệp thống Bắc Kỳ quân vụ đại thần. Chính tại Thành và Cột cờ Hưng Hóa, tên tuổi của ông đã đi vào lịch sử hào hùng của dân tộc cùng với những trang sử oanh liệt của phong trào Cần Vương kháng Pháp cuối thế kỷ XIX. Ra chiếu biểu lên vua khi nhậm chức, ông viết: “Xin nguyện làm con chim ưng để loại trừ ô thước” (ô thước là con quạ đen). Ông còn bày tỏ kế sách dùng người của mình là “Trọng dân” chứ không chỉ là “Thần dân” hay “Thương dân” và “Vi đức kỳ thịnh, hưởng vu khắc thành hữu công ư dân, hàm hồ bất dĩ” (nghĩa là: Làm việc Đức sẽ được hưởng phúc, có công với dân sẽ được dân mến mộ).
Thành, Cột cờ Hưng Hóa do Nguyễn Quang Bích chấn thủ có một vị trí chiến lược rất quan trọng. Từ đây có thể đi ngược về xuôi thuận tiện. Đây là kế lâu dài của triều đình nhà Nguyễn để giữ lấy Tam Tuyên (là Sơn Tây, Hưng Hóa và Tuyên Quang) chống lại thực dân Pháp. Tháng 04/1884, sau khi chiếm được các tỉnh ở Bắc Kỳ, quân Pháp dồn lực lượng tấn công thành Hưng Hóa. Lúc đó ta chỉ có quân đội của Nguyễn Quang Bích và quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc tổng cộng hơn 1.000 binh sỹ chiến đấu kiên cường, quyết giữ lấy Thành. Cuộc chiến đấu không cân sức với hơn 7.000 quân Pháp đã diễn ra quyết liệt trong 2 ngày 11 và 12/04 /1884. Câu “Nước Ghềnh và ma Đá Cú” (những hòn đá to đường vào Dậu Dương) nói lên điều đó. Biết tình thế không giữ dược Thành, Nguyễn Quang Bích trèo lên kính Thiên Đài trên đỉnh Cột cờ nhằm noi theo khí tiết của Hoàng Diệu ở Thành Hà Nội nhưng quân sỹ đã ngăn lại và phá vòng vây, đưa ông lên ngựa rút khỏi thành Hưng Hóa lên Tiên Động (xã Tiên Lương) huyện Cẩm Khê, sau đó về Xuân An (huyện Yên Lập) thuộc tỉnh Phú Thọ bây giờ. Trước khi lên ngựa ông dặn binh sỹ “Ta đã đem thân báo đền ơn nước, thì sau này cử lấy ngày Thành Hưng Hóa thất thủ làm ngày giỗ của ta”.
Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, Cột cờ Hưng Hóa là nơi Mặt trận Việt Minh cắm Cờ đỏ sao vàng, dán truyền đơn và tổ chức mít tinh ra mắt chính quyền nhân dân dầu tiên của huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Cột cờ Hưng Hóa là một trong năm cột cờ của Việt Nam. Cột cờ Hưng Hóa là biểu tượng của truyền thống chống giặc ngoại xâm, một công trình văn hóa thấm đượm tinh thần yêu nước, xả thân vì nghĩa lớn của danh nhân Nguyễn Quang Bích và các sỹ phu yêu nước. Trước khi chết ở núi Tôn Sơn, xã Xuân An, huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ ông dặn lại các binh sỹ. “Nếu mà thắng, mà sống thì là nghĩa sỹ của triều đình, chẳng may mà thua, mà chết thì cũng là quỷ thiêng giết giặc”.
Để tưởng nhớ công lao của Nguyễn Quang Bích cùng các sỹ phu yêu nước đã hy sinh vì Độc lập, Tự do của Tổ quốc, năm 2007, UBND huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ đã xây dựng Đền thờ Nguyễn Quang Bích cùng các sỹ phu yêu nước tại khu Tân Hưng, thị trấn Hưng Hóa. Đền thờ kiến trúc theo kiểu chữ “Đinh” truyền thống. Đây là nơi để nhân dân thị trấn Hưng Hóa giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ mai sau và du khách thập phương đến tham quan và tỏ lòng tri ân của mình với danh nhân Nguyễn Quang Bích cùng các sỹ phu yêu nước. Hàng năm cứ vào ngày 08/04 âm lịch (ngày sinh) và 15 tháng chạp (ngày mất) của ông nhân dân thị trấn Hưng Hóa và UBND huyện lại tổ chức lễ hội để tưởng niệm ông và coi ông như vị thánh đang hiện hữu phù hộ cho dân làng một cuộc sống bình an và thịnh vượng.
Văn miếu Hưng Hóa: Được xây dựng trên núi Trúc vào năm Minh Mạng 11 (1830), trước khi thành lập tỉnh Hưng Hóa. Năm 1882, chiến sự nổ ra, tỉnh lỵ bị tàn phá, trong đó có cả Văn Miếu. Tháng 6 năm 1893, Văn Miếu được xây dựng lại trên khuôn viên cũ. Văn Miếu gồm tòa chính đường thờ tiên Thánh, bên trong có các gian đặt ngai vị của Chí thánh tôn sư Khổng Tử, ban thờ tiên hiền của địa phương; hai bên là tả vu và hữu vu, phía trước là gác tam quan có lầu chuông và lầu trống. Phía sau là nhà Thủy đình đang làm nơi giảng tập cho sỹ tử. Bốn xung quanh xây bằng gạch đá ong. Văn Miếu Hưng Hóa ngoài văn bia ghi lại việc xây dựng Văn Miếu còn có 8 bức Đại tự và 62 câu đối.
Di tích Cột cờ Hưng Hóa xưa được khôi phục lại cùng với Thành cổ, Văn Miếu và Đền thờ Danh nhân Nguyễn Quang Bích để các thế hệ người Việt hôm nay và mai sau luôn tự hào về truyền thống cách mạng, ý chí kiên cường, bất khuất đấu tranh dựng nước và giữ nước của ông cha, là nơi để con cháu muôn đời hội tụ tưởng nhớ công ơn của các bậc tiền nhân, là tấm gương mãi mãi soi đường cho các thế hệ con cháu trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam thân yêu.
Đ.T.Â