Dạo hồ Đồng Cận chiều hè
Sóng lăn tăn gợn, Bút Tre hiện về.
Đặng Văn Đăng chính là nhà thơ Bút Tre mà vào những lúc vui vẻ hoặc lao động mệt nhọc người ta hay nhắc tới ông, đọc thơ ông và làm theo theo kiểu của ông. Kiểu thơ Bút Tre.
Trong từ điển Văn hóa Việt Nam, phần nhân vật chí, Nxb Văn hóa 1993, trang 49 có ghi “Bút Tre tên chính là Đặng Văn Đăng hay còn gọi là Đặng Văn Quang, quê ở xã Đồng Lương, huyện Cẩm Khê, tỉnh Vĩnh Phú (nay là tỉnh Phú Thọ). Đỗ tú tài triết học, thường viết báo dưới thời Pháp thuộc, ký tên là Lục Y Lang. Từ sau năm 1945, hoạt động ngoại giao, đã làm Bí thư thứ hai ở Rumani, sau đó chuyển về làm Trưởng ty Văn hóa của tỉnh Phú Thọ, tham gia BCH Hội VNGD Việt Nam. Ngoài việc chỉ đạo ngành Văn hóa của tỉnh, Bút Tre đã tự sáng tác ra một lối ca dao riêng, nội dung thông tin rất gắn với thời sự mà về hình thức thường đảo lộn cấu trúc lục bát, dùng phép bắc cầu táo bạo, nghịch ngợm, cưỡng ép thanh vần. Ca dao Bút Tre đã tạo được sự vui nhộn trong sinh hoạt văn hóa quần chúng, gây tiếng cười hồn nhiên, nhiều khi không kém phần ý vị”. Ông còn là người đề xướng nghiên cứu văn hóa Hùng Vương. Sau chuyến đi thực tế ở tuyến lửa Quảng Bình thời kháng chiến chống Mỹ, ông là người phát động phong trào “Tiếng hát át tiếng bom” và ông còn là người có công ghi lại câu nói bất hủ của Bác Hồ ở Đền Giếng (Đền Hùng) với Đại đoàn quân Tiên phong trước khi về tiếp quản Thủ đô: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước/ Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Ông Đặng Văn Đăng làm nhiều thơ. Ông có tập thơ Đường luật gồm 398 bài với nhan đề “Nhật ký thơ” và 5 tập thơ.
Bút Tre là thương hiệu của ông Đặng Văn Đăng. Anh Đặng Văn Phiến con trai của ông Đăng kể: Khi ông Đăng đọc bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu, thấy có câu thơ “Nhà nghèo không mực thì son/ Bút Tre giấy lá nuôi con học hành”, thế là ông lấy luôn “Bút Tre” làm bút danh của mình. Theo ông: Bút Tre là để “chọi” với “Bút sắt”. “Chọi” với “Bút sắt” là vì một thời các nhà thơ “Bút sắt” làm thơ nghiêm túc, ít chất “thi sỹ” mà luôn khuôn phép quá, chỉn chu quá. Thơ “khô” như báo cáo, ít sáng tạo. Nội dung và hình thức như sách dạy. Ai mà đi “chệch đường ray” là bị các “nhà phê bình” uốn nắn để lập lại trật tự. Bút Tre là một ví dụ điển hình. Ngày ông làm Trưởng Ty Văn hóa (1962), thơ ông bị chế giễu, dè bửu, thậm chí có người còn đề nghị phê bình, kỷ luật ông vì ông có những câu thơ “xúc phạm” đến lãnh tụ, nhưng có người lại nói: ông bị “oan như Kim Ngọc khoán chui”. Câu thơ đó là: “Hoan hô Đại tướng Võ Nguyên/ Giáp ta thắng trận Điện Biên trở về”.
Câu thơ trên ở trong Trường ca tặng Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Chính câu thơ “xuất thần” đó đã làm nên thương hiệu Bút Tre lưu truyền hậu thế.
Trong lịch sử thơ lục bát Việt Nam chưa có ai dám ngắt nhịp 6/8 chia đôi họ, tên một người lừng danh bốn bể, năm châu như Bút Tre cả. Chính sự đột biến ngắt nhịp đó làm cho tiếng cười sảng khoái, có sức lan truyền “câu lai” để ta nhớ về chiến thắng Điện Biên Phủ không thua kém gì các nhà thơ “Bút sắt” nào. Chính từ hai câu thơ trên mà dân gian có một loại thơ “Hoan hô” hậu Bút Tre như: “Hoan hô Bộ trưởng Trần Hoàn/ Lên làm Bộ trưởng chiếu toàn phim hay”; “Hoan hô Trung tướng Phạm Tuân/ Bay lên vũ trụ một tuần về luôn”... Ngoài lối ngắt nhịp đột biến trên, Bút Tre còn có rất nhiều cách như chặt từ, ép vận, để lửng, biến thể lục bát để cho câu thơ nhanh đi vào lòng người đọc, tạo sự thoải mái tinh thần lúc vui cũng như lúc mệt nhọc. Ví như “Chú về công tác bảo tàng/ Cũng là nhiệm vụ cách màng giao cho” hay “Bút Tre chẳng như mọi người/ Qua sông nhớ mãi nụ cười chú em” người nghe liên tưởng đến câu ngạn ngữ “Qua sông đấm... vào sóng”... Từ đó, “hậu Bút Tre” sáng tác hàng ngàn câu thơ kiểu như trên để cho cuộc sống thêm vui nhộn. Những sáng tạo lạ lùng và hiệu quả đó đã làm nên trường phái Bút Tre mà hàng thế kỷ qua không nhà thơ nào làm được. Ngả mũ bái phục Bút Tre!
Ấy vậy mà lúc sinh thời, thơ Bút Tre không được bất kỳ một tờ báo hay Nxb nào ở Trung ương in cả vì người ta cho rằng thơ ông là buồn cười, là ngớ ngẩn. Là Trưởng ty, ông tự ký giấy phép xuất bản cho thơ mình nên những người “Bút sắt” lại càng vin vào đó để lu loa và đề nghị kiểm điểm ông. Ông viết “Lịch sử quanh co trêu ghẹo mãi/ Nhân tài bất lực lặng như tờ”. Nhưng ông vẫn quyết không bỏ “lối thơ” mình đã chọn. Nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn kể lại: Một lần có nhà văn danh tiếng ở Hà Nội lên Phú Thọ, sau khi nghe Bút Tre đọc một số bài thơ, nhà văn bảo: “Tôi sẽ nhờ ông Xuân Diệu sửa giùm những bài thơ của anh”. Ông Đăng nói ngay: “Thơ Xuân Diệu là “thơ bác học”, tôi làm “vè dân gian”, Xuân Diệu là nhà thơ “Bút máy”, tôi là “Bút Tre” Xuân Diệu sửa thế nào được thơ tôi”. Ông Nhàn kể tiếp: “Nhà văn Nguyễn Tuân - bậc thầy về chữ nghĩa - đã nêu ý kiến rằng Hội VHNT Vĩnh Phú (trước đây) và Hội Nhà văn Việt Nam cần nghiên cứu nghiêm túc về hiện tượng Bút Tre”. Theo tôi được biết, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, nhà thơ đã để công sức nghiêm túc để đánh giá thực chất về Bút Tre. Qua nghiên cứu, các tác giả này đều nhất trí rằng: Thơ Bút Tre là một trường phái, đúng như lúc ở cõi tạm, ông tiên đoán: “Năm năm dân dã lắng nghe/ Một Bút Tre thành vạn Bút Tre các làng”.
Và: “Mai sau kẻ đoái, người hoài mặc/ Hạnh phúc hôm nay mát dạ người”.
Từ thơ Bút Tre, đến nay đã có thêm “Bút Tre non”, “Bút Tre xanh” và “Bút Tre tây”. Cái hay của trường phái này là ai cũng có thể sáng tác được, thậm chí còn sáng tác hay.
Bút Tre có nhiều đóng góp lớn về văn hóa, lịch sử cho tỉnh Phú Thọ. Ông xứng đáng được mọi người tôn vinh. Phố Đặng Văn Đăng ở thành phố Việt Trì là minh chứng.
Đ.T.Â