Là một nhà thơ mới, Nguyễn Bính là người tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trở về và đào sâu vào truyền thống dân gian. Ông khai thác những nét đặc sắc của vốn văn hoá dân gian truyền thống: từ đề tài đến cách sử dụng thể thơ, thi tứ. Nhạy cảm với những biến động thời đại trong đó có những nền nếp nghìn đời sau luỹ tre xanh bị lung lay trước cuộc sống đô thị, Nguyễn Bính đã thể hiện những giá trị văn hoá cổ truyền. Vì lẽ đó trong “Tương tư” Nguyễn Bính đã đem đến cho người đọc những vẻ đẹp của làng quê và những dấu ấn của thơ ca dân gian qua cách nhìn, cách thể hiện của một nhà thơ mới.
Trước hết, chất dân gian trong bài thơ “Tương tư” thể hiện ở nhan đề, đề tài của bài thơ. Tương tư là nỗi nhớ đến nhau của tình yêu đôi lứa. Nhưng trên thực tế, tương tư được dùng để diễn tả nỗi nhớ đơn phương. Tâm trạng tương tư nảy sinh khi có sự xa cách về không gian và cả thời gian. Ngọn nguồn của nỗi tương tư là niềm khao khát được gần kề, được chung tình. Chọn đề tài tương tư, Nguyễn Bính đã có sự gặp gỡ với thơ ca dân gian truyền thống.
Từ một đề tài quen thuộc, Nguyễn Bính đã diễn tả nỗi nhớ mong tha thiết chân thành của chàng trai quê: “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông/ Một người chín nhớ mười mong một người”.
Hai câu thơ diễn tả nỗi niềm của một chàng trai chân quê với một cô gái đồng nội. Nếu chàng trai mạnh dạn “nắm cổ tay” và “hỏi một câu này” thì có lẽ chẳng có chuyện. Nhưng ở đây “Một người chín nhớ mười mong một người”. Cái tôi trữ tình của chàng trai là cái tôi đa tình nhưng không bạo dạn như trong thơ Xuân Diệu “phải nói yêu trăm bận đến nghìn lần” mà nhút nhát như cái chất vốn có của những chàng trai quê. Chàng trai đã tạo nên một không gian xa cách để bộc bạch nỗi niềm: “thôn Đoài” - “thôn Đông”. Thôn Đoài, thôn Đông là những địa danh có ý nghĩa hoán dụ tượng trưng cho khoảng không gian xa cách để mà nhớ thương. Từ xa xôi trở về gần gũi, từ phiếm chỉ trở thành xác định “Một người chín nhớ mười mong một người”. Điều đáng nói, nỗi nhớ của chàng trai quê ở đây không bình lặng mà xôn xao, thậm chí cồn cào như những đợt sóng dâng lên. Các số từ “chín”, “mười” đan xen với động từ “nhớ”, “mong” làm cho nỗi nhớ mong như tăng lên gấp bội lần.
Trong khi, tình cảm riêng tư của con người được giải phóng, nỗi nhớ trong thơ mới cũng trở thành trăm hình vạn trạng. Nói như Lưu Trọng Lư: “Có cái tình thoáng qua, cái tình đắm say, cái tình gần gụi, cái tình xa xôi” và nỗi nhớ đó đã hoá thành “Tương tư chiều” của Xuân Diệu, “Hai sắc hoa Ti-gôn” của TTKH... Thế nhưng đến Nguyễn Bính, nỗi nhớ ấy vừa mang dấu ấn của thơ ca dân gian, vừa mang dấu ấn của thời đại, của cái tôi trong thơ mới mà nổi bật là một nỗi niềm thiết tha, chân thành.
Cũng là nỗi tương tư, nhưng nỗi tương tư trong thơ Nguyễn Bính gắn với không gian mộc mạc, bình dị của làng quê. Nó khác với không gian có tính chất ước lệ trong thơ của Huy Cận “Vạn lí sầu lên núi tiếp mây” và cũng không phải là cách nói mới mẻ trong thơ của Xuân Diệu. Con người lãng mạn trong “Tương tư” đã thao thức “chín nhớ mười mong một người”.
Hai câu thơ tiếp theo, Nguyễn Bính mượn hình ảnh của thiên nhiên để diễn tả trạng thái tâm lí của người đang yêu: “Gió mưa là bệnh của giời,/ Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.
Gió, mưa là căn bệnh cố hữu của thiên nhiên, căn bệnh này cũng mang ý nghĩa phổ biến cho nhiều người khi bước vào ngưỡng cửa tình yêu. Nói là bệnh nhưng thực ra nó là trạng thái tình cảm quen thuộc trong tình yêu đôi lứa. Tuy nhiên tình cảm quen thuộc ấy được thể hiện như một căn bệnh có sẵn: “Tương tư chẳng ốm cũng sầu”. Tất nhiên căn bệnh tương tư ấy không chỉ có ở chàng trai mà còn có ở các cô gái: “Mình em như cây thầu giầu,/ Ngoài tươi trong héo giữa sầu tương tư”.
Vì yêu mà nhớ, vì nhớ mà yêu. Nỗi nhớ là sự khởi đầu của tình yêu. Nếu trong khổ thơ mở đầu Nguyễn Bính đã lựa chọn một không gian phù hợp, cách diễn đạt gần với dân gian để diễn tả nỗi nhớ thì ba khổ thơ tiếp theo thi sĩ lại chọn những hình ảnh rất bình dị, cách nói mộc mạc để diễn đạt sự trách móc của nhân vật trữ tình với người con gái anh yêu: “Hai thôn chung lại một làng/ Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này”.
Cách đo đếm thời gian cũng rất gần gũi với cách nói của dân gian: “Hai thôn chung lại một làng” . Vậy là khoảng không gian đã bị thu hẹp lại và giữa hai người không hề có sự cách trở về không gian, thời gian. Cô gái có thể sang với chàng trai dễ dàng, thuận lợi, thế nhưng cô gái lại “không sang bên này”. Câu thơ thoáng một chút hờn dỗi, trách móc, một chút băn khoăn của chàng trai. Thực ra lời trách móc ấy có phần vô lí bởi vì tình yêu của chàng trai với cô gái là một tình yêu đơn phương. Cô gái làm sao biết được tình yêu mà chàng trai dành cho mình, thậm chí chưa biết mặt, biết tên chàng trai... huống hồ trong chuyện tình cảm: “trâu đi tìm cọc, chứ cọc không đi tìm trâu”. Vậy thì làm sao chàng trai có thể trách móc cô được? Đó chính là sự vô lí trong lời nói của chàng trai. Lí lẽ của chàng trai thật vô lí, thật khác thường nhưng cũng thật đáng yêu, đáng cảm thông vì nó xuất phát từ trái tim yêu thật lòng, chân thành và tha thiết!
Không gian giữa hai người được thu hẹp hơn: “Bảo rằng cách trở đò giang/ Không sang là chẳng đường sang đã đành/ Nhưng đây cách một đầu đình/ Có xa xôi mấy mà tình xa xôi”.
Khoảng cách giữa chàng trai và cô gái chỉ có một đầu đình, đò giang không cách trở vậy mà tình vẫn xa xôi. Chàng trai vẫn tương tư, vẫn nhớ mong cô gái, chờ đợi cô gái: “Tương tư thức mấy đêm rồi/ Biết cho ai hỏi ai người biết cho”.
“Ai” là đại từ có ý nghĩa phiếm chỉ, chàng trai hỏi cô gái nhưng cũng là hỏi chính mình. Chàng trai nhớ cô gái nhưng liệu cô có nhớ chàng trai hay không? Và cô có biết chàng trai đã thức mấy đêm rồi vì nhớ mong hay không ? Trong nỗi nhớ mong ấy chàng trai vẫn có một khao khát gặp gỡ: “Bao giờ bến mới gặp đò/ Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau”.
“Bến, đò, hoa, bướm” là những hình ảnh quen thuộc trong ca dao. Nguyễn Bính đã sử dụng chất liệu dân gian, tạo cho bài thơ âm hưởng ca dao mộc mạc, nhưng vẫn mang tinh thần thơ mới qua hình ảnh “hoa khuê các”, “bướm giang hồ”. Câu hỏi “bao giờ” hàm chứa sự hi vọng vì con đò có trôi nổi đến đâu, cuối cùng cũng sẽ quay về với bến và bông hoa kia dù có nở trong nơi “khuê các” thì cũng không thể ngăn được đôi cánh tình yêu của bướm giang hồ. Mượn những hình ảnh quen thuộc của ca dao, chàng trai bộc bạch ước mong được gặp gỡ người mình yêu.
Khép lại bài thơ là nỗi ước mong của nhân vật trữ tình: “Nhà em có một giàn giầu/ Nhà anh có một hàng cau liên phòng/ Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông/ Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”.
Tình yêu gắn liền với niềm mong ước nên duyên. Niềm mong ước ấy vừa tha thiết, vừa chân thành, vừa có một điều gì đó xa vời. Bởi “Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”. Trầu, cau là biểu tượng đẹp nhất về hôn nhân. Câu thơ mang phong vị dân gian, đồng thời biểu hiện ước mơ trong sáng của người đang yêu: tình yêu hướng tới hôn nhân.
Tình yêu phải gắn liền với hôn nhân. Đó là một quan niệm tiến bộ của người bình dân xưa. Các cặp từ sóng đôi xuất hiện từ xa đến gần, cuối bài là trầu - cau cho ta thấy niềm khao khát chung tình của chàng trai, là bằng chứng khẳng định chất truyền thống, chất dân gian thấm rất sâu vào hồn thơ Nguyễn Bính và quan niệm của Nguyễn Bính về tình yêu.
Hơn nữa chất dân gian trong bài thơ còn thể hiện ở cách Nguyễn Bính lựa chọn thể thơ truyền thống, thơ lục bát để diễn tả nỗi nhớ thương. Trong khi các nhà thơ mới sử dụng hình thức thơ tự do rất thoải mái, linh hoạt, đi tìm sự cách tân cho thơ như: sáng tạo hình ảnh mới mẻ, dùng từ táo bạo, lối chấm câu giữa dòng, vắt dòng thơ,... thì Nguyễn Bính đã trở về với ngọn nguồn của ca dao. Thơ Nguyễn Bính có cái vỏ mộc mạc của những câu hát đồng quê. Cho nên những lời thơ của Nguyễn Bính rất gần gũi với mọi người. Ngôn từ trong bài thơ mộc mạc, cách sử dụng đại từ phiếm chỉ “ai”: “Biết cho ai hỏi ai người biết cho” gần gũi với cách dùng từ, từ ngữ trong ca dao.
Cách diễn đạt tình cảm của nhân vật trữ tình cũng rất mộc mạc, tâm trạng của nhân vật trữ tình vận động trong một thời gian, không gian thích hợp. Bài thơ không có lời đối thoại, cả bài thơ là lời của nhân vật trữ tình nên thời gian, không gian rất quan trọng: nhân vật trữ tình nhớ mong, chờ đợi bao nhiều thời gian, thời gian trôi qua mà người anh yêu không đến. Thời gian trong tình yêu là thời gian bị kéo dài, không yên lặng mà xao xuyến, băn khoăn. Nguyễn Bính đã sử dụng cách lặp từ với tiết tấu trùng điệp “lại qua ngày” gây cảm giác thời gian kéo dài. Từng ngày qua nhân vật trữ tình chờ đợi nhớ mong và nay lá đã thay mùa, đổi vụ “lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng” mà chàng trai vẫn cô đơn, vẫn sống trong sự chờ đợi vô vọng, héo hon. Nhưng sự chờ đợi của chàng trai trong thơ Nguyễn Bính không lời hẹn ước. Mạch thơ từ thời gian lại trở về với không gian, những suy nghĩ của nhân vật trữ tình cũng trở nên da diết hơn. Chỉ có điều chàng trai trong tương tư vừa rụt rè, nhút nhát, nhún nhường, vừa hạ mình để mong gặp người yêu và hy vọng một điều gì đó rất xa vời... Điều đáng nói, những cung bậc tình cảm của chàng trai trong bài thơ rất chân thành, tha thiết. Có nhớ mong, có trách cứ, có hờn giận, có xót xa, có chờ đợi nhưng không hận tình, không tuyệt vọng, không chán nản.
Tương tư tái hiện nỗi nhớ trên cái nền quen thuộc của làng quê Việt Nam. Nói đúng hơn là cái hồn quê rất gần gũi, rất trong trẻo và thuần thiết. Vì thế, đọc Tương tư, ta như được đứng trước một không gian của làng quê, cảnh quê. Những hình ảnh: thôn Đoài, thôn Đông, đầu đình, giàn giầu, hàng cau là những hình ảnh thân thuộc nhất, trìu mến nhất của làng quê Việt Nam mà chỉ khi nhà thơ thực sự gắn bó với quê hương, hình ảnh của quê hương mới đi vào thơ tự nhiên đến thế. Chỉ riêng với Tương tư, thi sĩ đã khơi dậy ở người đọc tình cảm đối với quê hương. Ông yêu mến và trân trọng giới thiệu những hình ảnh đẹp, tiêu biểu của làng quê Việt Nam, mà mỗi cảnh vật, con người đều thấm đượm hồn quê. Thi sĩ viết: “Nhưng đây cách một đầu đình” thế mà gợi được cả không gian văn hoá của quê hương. Nguyễn Bính giỏi miêu tả cảnh vật, nhưng ông không sa vào miêu tả chi tiết mà chỉ dựng cảnh, tạo không khí để gợi tình cảm. Một chút cảnh vật mà gợi được không khí thanh bình của làng quê. Chính cái gốc làng quê luôn nhắc nhở nhà thơ trở về những gì thân thuộc nhất của quê hương. Giàn giầu, cau liên phòng, thôn Đoài, thôn Đông thuộc về gốc, về ngọn nguồn tạo nên chất chân quê trong thơ Nguyễn Bính nói chung và Tương tư nói riêng.
Có thể nói “Tương tư” là một trong những bài thơ hay của Nguyễn Bính. Cấu trúc bài thơ như một khúc ca dân gian có mở đầu, có kết thúc, có sự tương ứng về ý về lời. Mạch thơ vừa mang tâm trạng của một cá nhân, vừa thể hiện tâm lí của một cộng đồng làng quê trong sinh hoạt đời thường. Đúng là bài thơ tiêu biểu cho vẻ đẹp dân gian, chất chân quê trong thơ Nguyễn Bính.
C.T.H